Bản án 47/2020/HS-PT ngày 19/02/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 47/2020/HS-PT NGÀY 19/02/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Trong ngày 19 tháng 02 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự đã thụ lý số: 532/2019/TLPT- HS ngày 20 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo Phạm Văn H và Văn Tấn N do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 58/2019/HS-ST ngày 18/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

Bị cáo kháng cáo:

1. Bị cáo Phạm Văn H, sinh năm 1996, tại tỉnh Quảng Bình; Hộ khẩu thường trú: Xóm 1, thôn Đ, xã Đ1, huyện T, tỉnh Quảng Bình; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Đầu bếp; Cha: Phạm Văn Th, sinh năm 1959, mẹ: Mai Thị T, sinh năm 1954; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt giam ngày 20/12/2017; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Bị cáo Văn Tấn N, sinh năm 1997 tại tỉnh Quảng Ngãi; Hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi; tạm trú: Khu phố Đ2, phường B, thị xã Th, tỉnh Bình Dương; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Làm bếp. Cha: Văn G sinh năm 1950, mẹ: Tống Thị Thanh Th sinh năm 1960. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt giam ngày 20/12/2017, thay đổi biện pháp ngăn chặn ngày 03/8/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn H có luật sư: Trần Đăng S – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo Văn Tấn N có luật sư: Ồng Phạm Hoài N - Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

- Đại diện hợp pháp của bị hại không có kháng cáo nên cấp phúc thẩm không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cáo trạng và nội dung án sơ thẩm nêu hành vi phạm tội của các bị cáo như sau:

Vào khoảng 00 giờ 00 ngày 19/12/2017, Phạm Văn H, Nguyễn Đình Tr, Văn Tấn N cùng với Huỳnh Thị H, Nguyễn Thanh T và Phan Quang D, Lê Thị Ngọc H, Phan Quang T, Lê Thị Kim Q, Điệp Võ Sương Ch, Hồ Duy T đến ca hát và ăn uống tại phòng số 104 của quán Karaoke A, tọa lạc tại khu phố B, phường B, thị xã Th, tỉnh Bình Dương.

Khi Văn Tấn N cùng nhóm bạn đang hát Karaoke tại quán A thì có 02 người khách ở phòng 106 kế bên (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) sang phòng 104 để uống bia giao lưu và chào hỏi Văn Tân N. Sau khi hai người khách trên vào phòng 104 thì nhân viên phục vụ của quán A là Đàm Văn L, sinh năm 1995, HKTT tại xã Q, huyện Q1, tỉnh Nghệ An và Trịnh Thế D, sinh năm 1997, HKTT tại xã N, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận nghe trong phòng 104 có cãi nhau lớn tiếng nên L và D mở cửa phòng 104 đi vào để nhắc nhở, khuyên ngăn nhưng D bị H nắm cổ áo đẩy ra ngoài. Do bị H đẩy ra ngoài nên D cùng L đi xuống quầy tiếp tân báo lại sự việc cho ông Lê Văn Tr1, sinh năm 1974, HKTT tại khu phố B, phường B, thị xã Th, tỉnh Bình Dương (là chủ quán A). Sau đó, ông Tr1 cùng với Đinh Xuân Đ, sinh năm 1985, HKTT tại xã T, huyện T1, tỉnh Nghệ An (là nhân viên phục vụ của quán) và L cùng lên phòng 104 để giải quyết. Khi lên phòng 104, ông Tr1 cầm theo một cây ba khúc (cây vũ) để đe dọa hành hung H nhưng được Văn Tấn N và Nguyễn Đình Tr can ngăn không cho hai bên gây gổ đánh nhau; lúc này H lên tiếng xin lỗi ông Tr1 nhưng ông Tr1 không chấp nhận và yêu cầu H, N đi xuống khu vực sảnh của quán để giải quyết;

ông Tr1 dùng tay đẩy N ra ngoài làm N ngã xuống cầu thang, còn H bị Đàm Văn L dùng tay đánh vào đầu. Lúc này, những người cùng nhóm của Văn Tấn N yêu cầu nhân viên quán A tính tiền để đi về.

Khi xuống khu vực sảnh của quán A thì ông Lê Văn Tr1 và một nhóm người (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) sử dụng hung khí đe dọa và đánh H. Trong đó, ông Lê Văn Tr1 dùng cây ba khúc đánh vào vùng đầu của H nên H bỏ chạy ra đường nhựa phía trước quán A; ông Tr1 và một số người tiếp tục đuổi theo; trong lúc bị truy đuổi, H lấy con dao gấp dài khoảng 20cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng, mũi nhọn, cán bằng kim loại ốp nhựa màu đen bấm lưỡi dao bật ra (dao có sẵn trong người) xoay người lại và dùng dao đâm nhiều nhát trúng vào vùng lưng, bụng, mông của ông Tr1, làm ông Tr1 ngã nằm bất tỉnh dưới đường; sau đó H tiếp tục dùng con dao này truy đuổi để đâm những người đuổi theo nhưng H không đâm trúng ai. Cùng thời điểm này thì Nguyễn Đình Tr cũng bị một số nhân viên của quán A truy đuổi nên Tr lấy được 01 cái xẻng cán bằng gỗ và lưỡi xẻng bằng kim loại dài khoảng l,2m (xẻng lấy ở khu vực đang xây dựng, sửa chữa của quán A), trong lúc bỏ chạy Tr đập mạnh xẻng xuống đường làm gãy rời phần lưỡi và cán xẻng rồi Tr cầm cán xẻng chạy đến chỗ H, nhìn thấy H dùng dao đâm ông Tr1 làm ông Tr1 ngã xuống đường; Tr chạy đến dùng cán xẻng đập nhiều cái vào vùng đầu của ông Tr1. Riêng Văn Tấn N giật lấy một dao tự chế (mã tấu) bằng kim loại màu trắng, dài khoảng 69cm từ tay của Nguyễn Thanh T (khi ra bãi xe của quán A lấy xe để về thì T nhìn thấy mã tấu để trong bãi xe nên T cầm lên; khi T vừa cầm dao lên thì N đến giật lấy mã tấu) chạy tới nơi ông Tr1 đang nằm bất động dưới đường và dùng mã tấu chém xuống mặt đường ngay sát bên vị trí ông Tr1 đang nằm, đồng thời N có lời lẽ chửi bới ông Tr1. Thấy ông Tr1 bị chém nằm bất động thì những người trong quán A không dám truy đuổi nhóm của H nữa nên Phạm Văn H, Nguyễn Đình Tr và Văn Tấn N cùng nhóm bạn đi chung rời khỏi hiện trường.

Ông Lê Văn Tr1 được nhân viên của quán và người dân gần đó đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Quân y 175, quận Gò vấp, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng do thương tích quá nặng, ông Tr1 đã tử vong ngay sau đó.

* Tại bản án hình sự sơ thẩm số 58/2019/HS-ST ngày 18/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định:

- Tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Giết người”.

Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 13 (mười ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/12/2017.

- Tuyên bố bị cáo Văn Tấn N phạm tội “Gây rối trật tự công cộng

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) Xử phạt bị cáo Văn Tấn N 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được khấu trừ thời gian bị tạm giam từ ngày 20/12/2017 đến ngày 03/8/2018.

- Án sơ thẩm còn tuyên trách nhiệm dân sự, án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo luật định.

- Ngày 16/8/2019 bị cáo Văn Tấn N kháng cáo xin được hưởng án treo.

- Ngày 19/8/2019 bị cáo Phạm Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

* Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bị cáo H xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo N xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh: Căn cứ các chứng cứ có tại hồ sơ cho thấy tòa sơ thẩm xử phạt Phạm Văn H phạm tội “Giết người”, Văn Tấn N phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét về mặt hình sự: Tòa sơ thẩm xử phạt bị cáo Phạm Văn H 13 năm tù là đúng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt, bị cáo có khắc phục hậu quả nhưng mức án trên là không nặng nên đề nghị Hội đồng xét xử giữ y án sơ thẩm.

Đi với bị cáo Văn Tấn N xử phạt 02 năm tù là thỏa đáng, việc xin hưởng án treo là không có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận, giữ y án sơ thẩm.

- Bào chữa cho bị cáo H luật sư cho rằng sau khi xét xử bị cáo cùng gia đình đã bồi thường một phần cho bị hại, bị cáo phạm tội do bị kích động lỗi bị hại. Về phần dân sự trong vụ án này có bị can Tr nên việc buộc bị cáo H chịu toàn bộ phần dân sự là không thỏa đáng. Đề nghị Tòa phúc thẩm chấp nhận yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bào chữa cho bị cáo N luật sư cho rằng bị cáo N không tham gia tấn công bị hại Tr, bị cáo N có la hét và dùng dao chém xuống đất thể hiện sự bực tức. Tòa sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 năm tù là nặng, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo cho bị cáo được hưởng tình tiết là hành vi của bị cáo chưa gây thiệt hại và cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo tiếp tục được làm việc để nuôi sống bản thân và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đối chiếu với các chứng cứ có tại hồ sơ Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Giết người”; Văn Tấn N phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” là có căn cứ, đúng pháp luật.

[1] Vào khoảng 00 giờ 00 ngày 19/12/2017 Văn Tấn N cùng nhóm bạn hát Karaoke tại quán A thì có 02 người khách ở phòng 106 kế bên (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) sang phòng 104 của N uống bia giao lưu chào hỏi, lúc này nhân viên phục vụ quán A là Đàm Văn L và Trịnh Thế D nghe phòng 104 cãi nhau to tiếng nên L và D đi vào nhắc nhở nên D bị H nắm cổ áo đẩy ra ngoài. Do bị H đẩy ra ngoài nên D và L xuống quầy tiếp tân báo lại sự việc với ông Lê Văn Tr1, sinh năm 1974 là chủ quán A. Ông Tr1 cùng Đinh Xuân Đ (cũng là nhân viên của quán A) và L cùng lên phòng 104. Khi đi lên phòng 104 Tr cầm theo một cây ba khúc (cây vũ) đe dọa hành hung H nhưng được Văn Tấn N và Nguyễn Đình Tr can ngăn không cho hai bên đánh nhau, lúc này H xin lỗi ông Tr1 nhưng ông Tr1 không chấp nhận và yêu cầu H, N đi xuống khu vực sảnh của quán để giải quyết. Ông Tr1 dùng tay đẩy N ra ngoài làm N ngã xuống cầu thang, H bị L dùng tay đánh vào đầu. Lúc này những người cùng nhóm của N yêu cầu nhân viên quán A tính tiền để đi về.

Khi xuống khu vực sảnh của quán ông Lê Văn Tr1 (chủ quán) cùng nhóm người (chưa xác định được nhân thân) sử dụng hung khí đe dọa đánh H. Ông Tr1 dùng cây ba khúc đánh vào đầu của H, H bỏ chạy, ông Tr1 và một số người khác đuổi theo, trong lúc bị truy đuổi H lấy con dao gấp dài khoảng 20cm mang theo người xoay lại đâm nhiều nhát trúng vào vùng lưng, bụng, mông của ông Tr1 làm ông Tr1 ngã xuống đường bất tỉnh, H tiếp tục đâm nhiều những người đuổi đánh mình nhưng không trúng. Cùng lúc này Nguyễn Đình Tr cũng bị một số người làm ở quán A truy đuổi, Tr lấy được 01 cái xẻng cán gỗ và đập xuống đường làm gãy rời phần lưỡi xẻng, cầm cán xẻng đánh vào đầu ông Tr1. N giật lấy cây dao tự chế từ tay T chạy đến chém xuống đất ngay sát vị trí ông Tr1 đang nằm.

Lê Văn Tr1 được nhân viên của quán và người dân đưa đến Bệnh viện Quân y 175 cấp cứu, nhưng do thương tích quá nặng ông Tr1 đã tử vong.

[2] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo:

[2.1] Đối với bị cáo Phạm Văn H, xuất phát từ mâu thuẫn trong khi hát karaoke, Lê Văn Tr1 chủ quán dùng cây ba khúc đuổi đánh H, H bỏ chạy, Tr1 và một số người khác đuổi theo đánh H, H dùng dao tấn công lại hậu quả làm anh Tr1 tử vong. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Giết người” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017), trong vụ án này bị hại có một phần lỗi, dùng hung khí tấn công bị cáo trước nên Tòa sơ thẩm xử phạt bị cáo theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Về hình phạt tòa sơ thẩm xử phạt bị cáo 13 năm tù là không nặng, mức án trên là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xuất trình chứng cứ đã bồi thường thêm cho bị hại, nhưng đó không phải là tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nên không có căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[2.2] Đối với bị cáo Văn Tấn N trong vụ án này bị cáo là người can ngăn giải hòa giữa bị cáo H và bị hại Tr1, N bị ông Tr1 dùng tay tấn công làm N ngã xuống cầu thang, bực tức vì bị ông Tr1 đánh khi thấy bị hại Tr1 ngã xuống do H đâm, N sử dụng dao chém xuống đất và la hét chửi ông Tr1, bị cáo không tấn công bị hại nhưng việc bị cáo dùng dao chém xuống đất và la hét đủ yếu tố cấu thành tội “Gây rối trật tự công cộng”. Xét về nhân thân bị cáo, bị cáo N chưa có tiền án, tiền sự, thật thà khai báo, phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật do nạn nhân gây ra. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo Điều 51 Bộ luật hình sự, áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề. Với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo xét thấy việc xử phạt bị cáo với mức hình phạt 02 năm tù đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, nên cần xử bị cáo bằng thời gian tạm giam cũng đủ giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Do đó chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo N, sửa án sơ thẩm.

Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Văn Tấn N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo H kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Văn H. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Văn Tấn N. Sửa án sơ thẩm số 58/2019/HS-ST ngày 18/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

- Áp dụng khoản 2 Điều 123; các điểm s, p khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 13 (mười ba) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2017. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Áp dụng khoản 2 Điều 318; các điểm s, e khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) Xử phạt bị cáo Văn Tấn N 07 (bảy) tháng 13 (mười ba) ngày tù. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt.

- Về án phí:

Bị cáo Phạm Văn H phải chịu 200.000 án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Văn Tấn N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các nội dung khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

432
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2020/HS-PT ngày 19/02/2020 về tội giết người

Số hiệu:47/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về