Bản án 47/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 47/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong các ngày 21 và 31 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện V xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 155/2020/TLST - HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Khánh H, sinh năm 1997. Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Chỗ ở hiện nay: Khu 9, tổ 10, phường T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, (có mặt).

Bị đơn: Anh Khổng Duy C, sinh năm 1992. Địa chỉ: Thôn T, xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 25 tháng 5 năm 2020 và các lời khai tiếp theo nguyên đơn - chị Phạm Thị Khánh H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Khổng Duy C ngày 17/11/2014, trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Cưới xong chị về làm dâu và ở chung cùng gia đình anh C. Tình cảm vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C chơi bời không chịu khó làm ăn, chị đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh C không nghe còn gây sự đánh đập chị. Mặt khác chị ở chung cùng gia đình anh C ngoài bố mẹ chồng còn có 02 người em trai của anh C. Cuộc sống sinh hoạt hàng ngày rất phức tạp. Mâu thuẫn căng thẳng đến tháng 4/2020 chị về nhà mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân nhau từ đó cho đến nay và không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn giữa chị và anh C đã ở mức trầm trọng, không thể chung sống cùng nhau nữa. Chị xin được ly hôn anh C. Hiện nay chị không có thai.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là các cháu: Khổng Phương A, sinh ngày 13/8/2015 và Khổng Duy Gia B, sinh ngày 09/4/2018. Hiện cháu Phương A và cháu Gia B vẫn đang ở cùng anh C. Ly hôn, chị xin được nuôi cả hai cháu Phương A và Gia B. Chị không yêu cầu anh Ch cấp dưỡng nuôi con chung.

Về căn cứ và điều kiện xin nuôi con: Em trai anh C là anh Khổng Duy T bị bệnh câm điếc, hiện vẫn đang ở chung cùng anh C và bố mẹ chồng chị. Thời gian chị về làm dâu nhà anh C, có một hai lần anh T có nhìn lén khi chị tắm, điều này khiến chị rất sợ và lo lắng. Đây là việc tế nhị nên chị chỉ nói với anh C nhưng anh C nói không quan tâm, ngoài ra không ai biết cả. Khi đó chị đang tắm nên chị cũng không có tài liệu chứng cứ chứng minh cho việc này. Vì vậy để cả hai con cho anh C nuôi dưỡng, chị lo sợ đến lúc nào đó sẽ ảnh hưởng đến các con chị. Mặt khác, hiện nay chị đang làm công nhân ở công ty gỗ tư nhân P, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Thu nhập 10 triệu/1tháng. Ngoài ra chị còn làm thêm thu gom phế liệu, chăn nuôi tại nhà, đủ điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng các con. Chị đang sinh sống cùng nhà, đất của bà ngoại và mẹ chị. Bà và mẹ chị còn trẻ khỏe có thể giúp chị chăm sóc, đưa đón các cháu đi học. Vì vậy chị đề nghị Tòa án giao cháu Phương A và cháu Gia B cho chị nuôi dưỡng để đảm bảo sự phát triển về mọi mặt cho các cháu.

Về tài sản, công nợ, đất canh tác, công sức lao động: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn - anh Khổng Duy C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án của Tòa án cùng bản sao đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, tài liệu chứng cứ do Tòa án thu thập; các văn bản tố tụng của Tòa án gửi cho anh C nhưng anh C đều không đến Tòa làm việc. Vì vậy, Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai và hòa giải theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 18/6/2020 của ông Khổng Duy Tvà biên bản xác minh ngày 28/7/2020 với bà Hồ Thị P (là bố mẹ đẻ của anh C), ông bà trình bày: Anh C và chị H kết hôn từ năm 2014. Kết hôn xong chị H về làm dâu và ở chung cùng gia đình ông bà. Anh chị chung sống hạnh phúc đến tháng 04/2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh chị không bảo ban nhau được về làm ăn kinh tế nên sinh ra cãi vã, va chạm. Sau đó chị H bỏ về nhà mẹ đẻ ở, vợ chồng anh chị sống ly thân từ đó cho đến nay. Gia đình có gọi điện và lên nhà bảo chị H về nhưng chị H không về đoàn tụ. Nay ở được với nhau hay không là tùy anh chị tự quyết định. Tòa án có gửi các Thông báo và văn bản tố tụng cho anh C, có lần anh C nhận trực tiếp, có lần ông bà nhận thay và đã thông báo lại cho anh C biết. Vì vậy việc chị H xin ly hôn anh C bản thân anh C có biết và anh có nói do anh bận công việc nên không đến Tòa án làm việc được. Chị H xin ly hôn để chị tự giải quyết. Về con chung: Anh C và chị H có 02 con chung là cháu Khổng Phương A, sinh ngày 13/8/2015 và cháu Khổng Duy Gia B, sinh ngày 09/4/2018. Hiện cả hai cháu đang ở cùng anh C. Nay ly hôn ông bà đề nghị Tòa án giao cho anh C được nuôi cháu Phương A hoặc được nuôi cả hai con. Hiện nay anh C đang làm nghề đi bán gà, xếp gà lên xe giao đi các nơi, sáng đi làm tối về, vẫn thường xuyên có mặt tại địa phương, bản thân ông bà có đủ điều kiện để giúp đỡ anh C chăm lo cho các cháu.

Xác minh tại Ủy ban nhân dân xã L và Công an xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, được biết: Ngày 27/11/2014, Uỷ ban nhân dân xã L tiến hành đăng ký kết hôn cho anh Khổng Duy C và chị Phạm Thị Khánh H. Sau khi kết hôn, chị H về làm dâu và chung sống cùng gia đình anh C. Tình cảm vợ chồng anh chị hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh chị có quan điểm sống khác nhau và tính tình khác nhau nên thường xuyên va chạm. Từ tháng 4/2020, chị H bỏ về nhà mẹ đẻ ở, vợ chồng anh chị sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị H xin ly hôn anh C, đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: Chị H và anh C có 02 con chung là Khổng Phương A sinh ngày 13/8/2015 và Khổng Duy Gia B sinh ngày 09/4/2018 . Cho đến nay cả hai cháu đang ở cùng anh Ch. Hiện anh C đang làm nghề bốc xếp gà lên xe và đi giao gà đến các nơi, thu nhập ổn định, bố mẹ anh C còn trẻ khỏe đủ điều kiện giúp anh C chăm con. Vì vậy, nay anh chị ly hôn, đề nghị Tòa án xem xét giao con theo nguyện vọng của các đương sự và theo quy định của pháp luật. Về tài sản, công nợ: Chị H và anh C có tài sản gì, nợ nần ai hay cho ai vay mượn gì, chính quyền địa phương không biết. Em trai anh C là anh Khổng Duy T bị bệnh câm điếc, hiện đang ở cùng nhà với anh C và bố mẹ anh C. Anh T nhận thức bình thường và đang đi làm cùng anh C. Anh C đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Đ, xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, cho đến nay chưa cắt chuyển khẩu khỏi địa phương và vẫn đang có mặt tại địa phương. Anh C không đến Tòa án làm việc vì lý do gì thì địa phương không biết.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V trình bày quan điểm như sau:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định; người tham gia tố tụng chị H đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, anh C là bị đơn đã nhiều lần Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt, không chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn anh C của chị H. Về con chung: Giao cháu Phương A và cháu Gia B cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, công nợ, đất nông nghiệp và công sức lao động các bên đương sự đều không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét. Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Phạm Thị Khánh H khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh Khổng Duy C và xin nuôi con. Bị đơn anh Khổng Duy C hiện có hộ khẩu và cư trú tại: Thôn T, xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, theo qui định tại các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện V.

Đi với anh Khổng Duy C, quá trình chuẩn bị xét xử Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt nên thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được theo Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án chỉ tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, anh C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ 2 lần nhưng đều vắng mặt không có lý do, nên Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh C theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ Hôn nhân: Chị H và anh C kết hôn với nhau ngày 17/11/2014, trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Vì vậy quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh C là tự nguyện, hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn chị H về ở chung cùng gia đình anh C. Xem xét hôn nhân giữa chị H và anh C thấy rằng: Cuộc sống chung vợ chồng giữa chị H và anh C có rất nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân như chị H trình bày do anh C chơi bời không chịu khó làm ăn, chị đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh C không nghe dẫn đến va chạm cãi vã. Mặt khác vợ chồng chị H ở chung cùng gia đình anh C, ngoài bố mẹ chồng còn có 02 người em trai của anh C. Cuộc sống sinh hoạt hàng ngày rất phức tạp. Vợ chồng anh chị sống ly thân từ tháng 4/2020 đến nay. Quá trình giải quyết vụ án, anh C vẫn có mặt tại địa phương, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án, gia đình đã thông báo cho anh C biết việc chị H xin ly hôn và xin nuôi con, nhưng anh C đều không có mặt tại Tòa án để làm việc và cũng không có văn bản gì gửi đến Tòa để trình bày ý kiến về mâu thuẫn vợ chồng hay xin hàn gắn, đoàn tụ; không có ý kiến gì về con chung, tài sản, công nợ và đất nông nghiệp, điều đó thể hiện thái độ không chấp hành pháp luật của anh C, nên anh C tự chịu trách nhiệm. Như vậy, có thể thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh C đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc chị H xin ly hôn là chính đáng, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình do đó cần được chấp nhận.

[3]. Về nuôi con chung: Xét nguyện vọng nuôi con chung là cháu Khổng Phương A và cháu Khổng Duy Gia B của chị H, Hội đồng xét xử xét thấy: Chị H đang ở số nhà 15, khu 9, tổ 40, phường T, thành phố V, tỉnh Phú Thọ cùng mẹ đẻ và bà ngoại. Hiện chị có chỗ ở ổn định, bản thân chị đang đi làm ở công ty gỗ tư nhân P, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Thu nhập 10 triệu/1tháng. Ngoài ra chị còn làm thêm thu gom phế liệu, chăn nuôi tại gia đình, có đủ điều kiện để nuôi con. Về phía anh C, vẫn có mặt tại địa phương, biết việc chị H xin ly hôn và xin nuôi con nhưng anh C không đến Tòa án để làm việc và cũng không có văn bản gì gửi đến Tòa để trình bày ý kiến, quan điểm của mình về con chung, thể hiện thái độ không chấp hành pháp luật của anh C, nên anh C tự chịu trách nhiệm.

Xác minh điều kiện nuôi con của chị H, chính quyền địa phương và gia đình xác nhận: Chị H có chỗ ở ổn định, hiện chị đang làm ở công ty gỗ tư nhân P, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Thu nhập 10 triệu/1tháng. Ngoài ra chị còn làm thêm thu gom phế liệu, chăn nuôi tại gia đình, chị có đủ điều kiện để nuôi 02 con. Xác minh tại Ủy ban nhân dân xã L và gia đình nhà chồng chị H có người em trai chồng là anh Khổng Duy T bị bệnh câm điếc, quá trình chung sống cùng nhau đã xảy ra va chạm. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ cũng như sự phát triển về mọi mặt của cháu Phương A và Gia B, cần giao cháu Phương A và cháu Gia B cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp. Chị H và anh C không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về tài sản chung, công nợ, đất nông nghiệp và công sức lao động: Chị H không đề nghị giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét. Sau khi ly hôn, nếu các đương sự có tài sản, công nợ, đất nông nghiệp và có đề nghị thì Tòa án giải quyết bằng vụ án khác theo qui định của pháp luật.

[5]. Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Khánh H được ly hôn anh Khổng Duy C.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Khổng Phương A, sinh ngày 13/8/2015; cháu Khổng Duy Gia B, sinh ngày 09/4/2018 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục (hiện nay cả hai cháu đang ở cùng anh C). Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản, công nợ, đất nông nghiệp, công sức lao động: Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị Khánh H phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0005025 ngày 01 tháng 6 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V. Chị H đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:47/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về