Bản án 47/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

 BẢN ÁN 47/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 52/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Võ Thị Thùy Tr , sinh năm 1989; (có mặt)

Bị đơn: Võ Thanh T, sinh năm 1988; (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Ấp BH 1, xã ĐHT, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 03 tháng 02 năm 2020 và những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Võ Thị Thùy Tr trình bày: Tôi và ông Võ Thanh T có tìm hiểu nhau và tiến tới hôn nhân vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐHT năm 2010. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, sau đó thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn trầm trọng, bắt đầu ly thân từ tháng 8 năm 2019 cho đến nay. Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng đã rạn nứt, không còn khả năng hàn gắn, nên tôi khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với ông T.

Về con chung: Quá trình chung sống, tôi và ông T có 02 con chung tên Võ Nhựt Tr, sinh ngày 15/9/2007, giới tính: Nam và Võ Hoàng H, sinh ngày 28/7/2012, giới tính:Nam. Con hiện đang sinh sống với tôi. Khi ly hôn, tôi xin được quyền nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tôi và ông T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Tôi và ông T không có nợ ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Võ Thanh T trình bày trong quá trình giải quyết vụ án: Tôi thống nhất lời trình bày của bà Tr về thời gian chung sống, việc đăng ký kết hôn. Cuộc sống vợ chồng khi sống chung phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là bà Tr có quen người đàn ông khác bên ngoài. Tôi đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng bà Tr không thay đổi. Chúng tôi đã ly thân từ tháng 8 năm 2019 cho đến nay. Nay bà Tr yêu cầu ly hôn thì tôi không đồng ý. Tôi còn thương vợ con, xin hàn gắn lại tình cảm vợ chồng để cùng lo cho con chung. Tôi cam kết sau này không tái phạm những sai lầm.

Về con chung: Tôi và bà Tr có 02 con chung như bà Tr trình bày. Nếu Tòa án cho ly hôn, tôi xin được quyền nuôi hai con, không yêu cầu bà Tr cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng tôi không có nợ ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Các đương sự đều thống nhất các chứng cứ của vụ án đã được giao nộp đầy đủ và được công khai đúng thủ tục nhưng kết quả hòa giải đoàn tụ không thành nên đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bà Võ Thị Thùy Tr khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Võ Thanh T, có hộ khẩu thường trú tại ấp BH 1, xã ĐHT, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn có mặt. Bị đơn ông T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Tr và ông T chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐHT ngày 10/11/2010 nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Trong quá trình chung sống, bà Tr cho rằng vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn trầm trọng, bắt đầu ly thân từ tháng 8 năm 2019 đến nay. Cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nên bà Tr yêu cầu ly hôn với ông T. Ngược lại ông T cho rằng vợ chồng phát sinh mâu thuẫn là do bà Tr có quen người đàn ông khác bên ngoài. Ông T đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng bà Tr không thay đổi nên ly thân từ tháng 8 năm 2019 cho đến nay. Nay bà Tr yêu cầu ly hôn thì ông T không đồng ý. Ông còn thương vợ con, xin hàn gắn lại tình cảm vợ chồng để cùng lo cho con chung.

Bà Tr và ông T đều thừa nhận trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẩn với nhau về tình cảm, cả hai không tin tưởng lẫn nhau. Tại phiên tòa, bà Tr kiên quyết xin ly hôn. Ông T vắng mặt, chứng tỏ ông không có thiện chí để hàn gắn. Xét thấy hôn nhân giữa bà Tr và ông T đã không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc nên yêu cầu xin ly hôn của bà Tr đối với ông T là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung: Bà Tr và ông T trình bày quá trình chung sống có hai con chung tên Võ Nhựt Tr, sinh ngày 15/9/2007, giới tính: Nam và Võ Hoàng H, sinh ngày 28/7/2012, giới tính: Nam. Khi ly hôn, bà Tr yêu cầu nuôi hai con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng. Ông T yêu cầu nuôi hai con chung, không yêu cầu bà Tr cấp dưỡng. Xét thấy để đảm bảo sự phát triển bình và theo nguyện vọng của hai cháu cần giao hai con chung tên Võ Nhựt Tr, sinh ngày 15/9/2007, giới tính: Nam và Võ Hoàng H, sinh ngày 28/7/2012, giới tính: Nam cho bà Tr nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Bà Tr không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung: Bà Tr và ông T trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Bà Tr và ông T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Bà Tr phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung ngân sách nhà nước theo khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Thùy Tr đối với ông Võ Thanh T về việc “Ly hôn”.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị Thùy Tr được ly hôn với ông Võ Thanh T.

2. Về con chung: Buộc ông T giao con chung tên Võ Nhựt Tr, sinh ngày 15/9/2007, giới tính: Nam và Võ Hoàng H, sinh ngày 28/7/2012, giới tính: Nam cho bà Tr nuôi dưỡng. Ông T không phải cấp dưỡng nuôi con do bà Tr không có yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Bà Tr phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0004539 ngày 03/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An. Bà Tr đã nộp đủ.

Án xử sơ thẩm, công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 47/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:47/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về