TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TU, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 99/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 16 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã TU tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số 409/2018/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2018 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 141/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 13/8/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa 69/2018/QĐST-HNGĐ ngày 31/10/2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm, 1986; địa chỉ: Tổ 2, khu phố V, phường B, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; có đơn xin vắng mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Phương L, sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ 2, khu phố V, phường B, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 27/8/2018, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Thanh T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Thanh T và bà Nguyễn Thị Phương L tự nguyện tìm hiểu nhau được khoảng 04 năm thì tự nguyện kết hôn. Ông bà đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện TU (nay là phường B, thị xã TU), tỉnh Bình Dương và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 16, quyển số 01/2008, ngày 11/3/2008.
Trong thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng thường bất đồng quan điểm sống và thường xuyên cãi vã nhau các vấn đề trong gia đình. Vì muốn có cuộc sống gia đình hạnh phúc, con còn nhỏ cần được sự chăm sóc của cả bố và mẹ nên ông T đã nhiều lần cố gắng hòa giải mâu thuẫn nhưng không thành. Vợ chồng không thể sống chung với nhau được nên vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2018 đến nay. Từ khi sống ly thân, vợ chồng không ai quan tâm chăm sóc cho nhau. Do tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông T yêu cầu được ly hôn với bà Nguyễn Thị Phương L.
- Về con chung: Ông T và bà L có một người con chung tên Nguyễn Thanh C, sinh ngày 02/02/2008 hiện tại do ông T là người trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, ông T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thanh C, sinh ngày 02/02/2008, bà Nguyễn Thị Phương L không phải cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nguyên đơn đã cung cấp các tài liệu chứng cứ sau:
+ Bản chính Giấy chứng nhận kết hôn;
+ Bản sao giấy khai sinh mang tên Nguyễn Thanh C;
+ Bản photo chứng minh nhân dân mang và sổ hộ khẩu tên Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thị Phương L.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Phương L được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia tố tụng tại Tòa nhưng vẫn vắng mặt không lý do.
Theo biên bản xác minh ngày 01/10/2018 tại Ủy ban nhân dân phường B, thị xã TU, tỉnh Bình Dương thì bà Nguyễn Thị Phương L có sinh sống và đăng ký thường trú tại địa chỉ: Tổ 2, khu phố V, phường B, thị xã TU, tỉnh Bình Dương. Về mâu thuẫn của vợ chồng cũng như yêu cầu nuôi con chung thì đại diện chính quyền địa phương không nhận được tin báo hay đơn yêu cầu giải quyết mâu thuẫn của đương sự.
Theo biên bản lấy lời khai ngày 02/10/2018 của bà Nguyễn Thị Phương Thảo là mẹ ruột của bà Nguyễn Thị Phương L thì bà Thảo khai: Bà Thảo biết nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng giữa ông T và bà L, mặc dù cũng cố gắng hàn gắn hai con nhưng không ai thay đổi.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TU phát biểu tại phiên tòa:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và đương sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật đúng theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã TU.
Về nội dung: Ông Nguyễn Thanh T và bà Nguyễn Thị Phương L tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện TU (nay là phường B, thị xã TU), tỉnh Bình Dương và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 16, quyển số 01/2008, ngày 11/3/2008. Nguyên nhân ông T yêu cầu ly hôn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng đã sống ly thân nên ông T yêu cầu ly hôn là có căn cứ. Ông T yêu cầu được quyền nuôi con là phù hợp nguyện vọng của cháu Nguyễn Thanh C và phù hợp với quy định pháp luật; về tài sản chung, nợ chung ông T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát,
[1]. Về quan hệ pháp luật và Thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Thanh T có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị Phương L và yêu cầu được quyền nuôi con sau khi ly hôn nên đây là vụ án “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; Bà Nguyễn Thị Phương L đăng ký thường trú tại địa chỉ: Tổ 2, khu phố V, phường B, thị xã TU, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã TU theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị Phương L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào các ngày 27/9/2018 và 15/10/2018 nhưng bà L vắng mặt không lý do. Tòa án triệu tập hợp lệ bà Nguyễn Thị Phương L tham gia phiên tòa ngày 31/10/2018 nhưng bà L vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa. Tòa án triệu tập bà L tham gia phiên tòa vào ngày 16/11/2018 nhưng bà L vắng mặt không có lý do là bà L đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng của mình tại Tòa án. Ông Nguyễn Thanh T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt ông T. Do đó, Tòa án căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ để giải quyết vụ án vắng mặt ông T và bà L theo quy định tại Điều 227,228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3]. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Thanh T và bà Nguyễn Thị Phương L là những người đủ điều kiện kết hôn; chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu để tiến tới hôn nhân; có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện TU (nay là phường B, thị xã TU), tỉnh Bình Dương và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 16, quyển số 01/2008, ngày 11/3/2008, đây là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Tình cảm vợ chồng không còn, ông bà không thể tiếp tục chung sống với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Bà Nguyễn Thị Phương L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, điều này cho thấy bà L hoàn toàn không có thiện chí để Tòa án hòa giải vợ chồng đoàn tụ cùng nhau xây dựng gia đình. Xét, mâu thuẫn giữa ông T và bà L đã trầm trọng, không thể hàn gắn được, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, ông Nguyễn Thanh T yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị Phương L là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.
[4]. Về con chung: Ông Nguyễn Thanh T và bà Nguyễn Thị Phương L có con chung tên Nguyễn Thanh C, sinh ngày 02/02/2008. Khi ly hôn, ông Nguyễn Thanh T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thanh C là phù hợp với nguyện vọng của cháu C là muốn được sống với ông T và hiện tại cháu C đang sống chung với ông T. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con” nên Tòa án chấp nhận.
[5]. Về cấp dưỡng nuôi con: Ông T không yêu cầu bà L phải cấp dưỡng nên Tòa án không giải quyết.
[6]. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.
[7]. Xét, đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ phù hợp quy định pháp luật.
[8]. Về án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 146, 147, 227, 228,238, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh T về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” với bà Nguyễn Thị Phương L như sau:
- Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Thanh T được ly hôn với bà Nguyễn Thị Phương L.
- Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Thanh C, sinh ngày 02/02/2008 cho ông Nguyễn Thanh T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Bà Nguyễn Thị Phương L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông Nguyễn Thanh T và bà Nguyễn Thị Phương L đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Bà L được quyền đi lại thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp bà L lạm dụng quyền đi lại thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì ông T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của bà L. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.
- Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.
2. Về án phí: Ông Nguyễn Thanh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0014358, ngày 06/9/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã TU.
3. Về quyền kháng cáo: Ông Nguyễn Thanh T và bà Nguyễn Thị Phương L vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 99/2018/HNGĐ-ST ngày 16/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 99/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về