Bản án 47/2020/HNGĐ-ST ngày 18/08/2020 về ly hôn giữa chị Đỗ Thị D và anh Trần Văn H

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 47/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2020 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ ĐỖ THỊ D VÀ ANH TRẦN VĂN H

Trong các ngày 20 tháng 7 và ngày 18 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 98/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị D; sinh năm 1999; địa chỉ: Xóm 3 xã HS, huyện HH, tỉnh NĐ; “vắng mặt”.

- Bị đơn: Anh Trần Văn H; sinh năm 1990; địa chỉ: Tổ dân phố CTĐ, thị trấn QL, huyện GT, tỉnh NĐ ; “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 13 tháng 4 năm 2020, bản tự khai và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Đỗ Thị D trình bày: Chị và anh Trần Văn H tự nguyện tìm hiểu và đã được Ủy ban nhân dân thị trấn QL, huyện GT, tỉnh NĐ cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 28 tháng 02 năm 2017. Sau kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng một năm thì phát sinh mâu thuẫn do tính cách không hợp nhau nên chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở xóm 3 xã HS, huyện HH, tỉnh NĐ ở và từ đó vợ chồng sống ly thân. Chị và anh H chưa có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản. Nay chị D đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Hưng và xin được vắng mặt tại phiên tòa xét xử.

Tại biên bản làm việc ngày 02 tháng 6 năm 2020, ông Trần Văn H1 là bố đẻ của anh Trần Văn H có ý kiến như sau: Chị Đỗ Thị D và anh Trần Văn H tự nguyện tìm hiểu được Ủy ban nhân dân thị trấn QL cấp giấy chứng nhận kết hôn vào năm 2017, hiện chưa có con chung, không vướng mắc gì về kinh tế đối với gia đình và xóm đội. Chị D, anh H chung sống hạnh phúc được khoảng một năm thì phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau nên chị D đã về nhà bố mẹ đẻ tại xóm 3 xã HS ở từ đó cho tới nay. Anh Hưng đi làm xa, có biết việc chị D có đơn ly hôn vì khi gia đình nhận được văn bản tố tụng của Tòa án đều thông báo và những ngày nghỉ anh Hưng vẫn về nhà. Nay chị Dung có đơn ly hôn anh Hưng, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản thu thập chứng cứ ngày 22 tháng 6 năm 2020, đại diện chính quyền địa phương cùng đoàn thể, cơ sở tổ dân phố CTĐ cung cấp: Chị Đỗ Thị D và anh Trần Văn H tự nguyện tìm hiểu được Ủy ban nhân dân thị trấn Quất Lâm cấp giấy chứng nhận kết hôn vào năm 2017. Vợ chồng chung sống với nhau được khoảng một năm chưa có con chung thì chị D về nhà bố mẹ đẻ tại xã HS ở, hiện không vướng mắc gì về kinh tế đối với cơ sở. Nay chị D có đơn ly hôn anh H, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng các quy định của bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào các Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTVQH; đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị Đỗ Thị D ly hôn anh Trần Văn H; về án phí: Đương sự phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và lời khai của đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Đỗ Thị D có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; anh Trần Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị D và anh Trần Văn H tự nguyện tìm hiểu và đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn QL cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 28 tháng 02 năm 2017 là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn do không hợp nhau nên đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2018 cho tới nay. Xét tình trạng hôn nhân giữa chị D và anh H mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt, nếu có kéo dài cũng không mang lại hạnh phúc. Vì vậy, chấp nhận nguyện vọng của chị D xin ly hôn anh H là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung, tài sản: Chị D, anh H chưa có con chung; không đề nghị Tòa án giải quyết về tài sản.

[4] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị D phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm; chị Dung và anh Hưng có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Xử ly hôn giữa chị Đỗ Thị D và anh Trần Văn H.

2. Về án phí: Chị Đỗ Thị D phải nộp: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn. Chị Dung đã nộp số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng tại biên lai thu số 0003676 ngày 21 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; nay đối trừ, chị Dung đã nộp đủ theo quy định.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Đỗ Thị D và anh Trần Văn H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2020/HNGĐ-ST ngày 18/08/2020 về ly hôn giữa chị Đỗ Thị D và anh Trần Văn H

Số hiệu:47/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về