Bản án 47/2019/HS-ST ngày 26/03/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ C, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 47/2019/HS-ST NGÀY 26/03/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2018/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lưu Văn T, sinh năm: 1994, tại đâu không rõ. (có mặt) Nơi đăng ký thường trú: Không; chỗ ở hiện nay: Sống lang thang, không nơi cư trú ổn định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Văn A và bà Dình U (không rõ năm sinh và địa chỉ cụ thể); vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: 01 lần – Ngày 08/4/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh H xử phạt 03 năm tù về tội “ Trộm cắp tài sản” theo điểm a, b, e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (theo bản án số 10/2016/HSST ngày 08/4/2016). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/10/2017. Chưa chấp hành án phí hình sự, án phí dân sự và trách nhiệm dân sự; Bị tạm giữ từ ngày 30/10/2018, đến ngày 02/11/2018 tạm giam cho đến nay.

Bị hại:

- Cháu Nguyễn Hải D, sinh ngày 09/6/2002. (vắng mặt)

Địa chỉ cư trú: Khóm Y, phường Z, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

- Cháu Nguyễn Vĩnh P, sinh ngày 14/4/2003. (có mặt)

Địa chỉ cư trú: Ấp X, xã L, Tthành phố C, tỉnh Cà Mau.

Đại diện hợp pháp của bị hại:

Đi diện hợp pháp của cháu Nguyễn Hải Dương:

- Ông Nguyễn Tân T, sinh năm:1977. (vắng mặt)

- Bà Trương Thị S, sinh năm: 1978. (vắng mặt)

Cùng địa chỉ cư trú: Khóm Y, phường Z, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

Đi diện hợp pháp của cháu Nguyễn Vĩnh Phúc:

- Ông Nguyễn Phước V. (vắng mặt)

Địa chỉ cư trú: Khóm Y, phường Z, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

- Bà Lê Thị N, sinh năm: 1983.(có mặt)

Địa chỉ cư trú: Ấp X, xã L, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Tân T, sinh năm: 1977. (vắng mặt)

Địa chỉ cư trú: Khóm Y, phường Z, thành phố C, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

u Văn T là người sống lang thang ở nhiều địa phương khác nhau. Ngày 06/10/2018 T từ tỉnh H xuống thành phố C để tìm tài sản chiếm đoạt. Khoảng 11 giờ ngày 16/10/2018, T đến quán cà phê Thăng Long đối diện trường Trung học cơ sở L thuộc khu vực ấp B, xã L, thành phố C, tỉnh Cà Mau tìm học sinh nào điều khiểm xe mô tô để tiếp cận, làm quen, dùng thủ đoạn gian dối rồi chiếm đoạt tài sản. Thực hiện ý định đó, T chủ động đến làm quen Nguyễn Hải D và Nguyễn Vĩnh P, nhờ D chở ra bưu điện rút tiền. D không đồng ý thì T tiếp tục năn nỉ D nhiều lần. Do đó D giao chiếc xe mô tô hiệu ESPERO biển số kiểm soát 69AA- 028.54 cho P, nhờ P chở T đi. Khi lên xe, T không nhờ P chở đến bưu điện mà kêu P chạy đến tiệm Net-S rồi sau đó chạy lòng vòng nội ô thành phố C. T tìm cách tiếp cận chiếc xe nêu trên bằng cách kêu P để T điều khiển xe cho nhanh. Tin T nên P giao xe cho T điểu khiển. T cũng không điều khiển xe đến bưu điện rút tiền mà điều khiển xe chạy về quán cà phê TL nơi D ngồi đợi. Đến quán, T không đưa chìa khóa xe cho P, cũng không mang chìa khóa xe đưa cho D mà quay ra, điều khiển xe biển số kiểm soát 69AA-028.54 đi lên thành phố CT bán xe. Đến thành phố CT, T gặp được ông Trần Văn Th, (ông Th sinh năm 1974, trú tại khu vực 1, phường AK, quận NK, thành phố CT), T nói chiếc xe biển số kiểm soát 69AA- 028.54 là xe của T, cần tiền nên T bán. T và ông Th thỏa thuận bán với giá 1.700.000đ. Ông Th đã nhận xe và trả cho T 1.700.000đ. Sau khi mua xe, nghi vấn xe đã mua là xe gian nên ông Th mang xe đến Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố CT giao nộp và trình báo sự việc.

Đi với Nguyễn Hải D: Sau khi bị T chiếm đoạt xe, Dương đến Công an xã L trình báo sự việc.

Ngày 18/10/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C đã ra thông báo truy tìm tang vật là chiếc xe mô tô hiệu ESPERO biển số kiểm soát 69AA- 028.54.

Ngày 29/10/2018, lực lượng tuần tra của Đội phòng ngừa, đấu tranh và phòng chống tội phạm của Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố CT phát hiện Lưu Văn T là người có liên quan đến chiếc xe mô tô hiệu ESPERO biển số kiểm soát 69AA-028.54 nên mời T về trụ sở làm việc. Tại đây, T đã khai nhận việc chiếm đoạt xe như đã nêu trên.

Ngày 30/10/2018 Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố CT đã giao Lưu Văn T và tang vật là chiếc xe mô tô hiệu ESPERO biển số kiểm soát 69AA-028.54 cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C tiến hành điều tra theo thẩm quyền.

Tại kết luận định giá tài sản số: 175/KL-HĐĐG ngày 30/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố C kết luận: Tính vào thời điểm tháng 10/2018, một xe máy hiệu ESPERO, màu trắng bạc, biển số kiểm soát 69AA-028.54 giá trị còn lại 90%: 14.000.000đ x 90% = 12.600.000đ (mười hai triệu sáu trăm nghìn đồng).

Quá điều tra xác định xe mô tô hiệu ESPERO biển số kiểm soát 69AA- 028.54 do bà Trương Thị S (mẹ ruột Nguyễn Hải D) đứng tên chủ sở hữu.

Ngày 30/10/2018 ông Nguyễn Tân T (cha ruột Nguyễn Hải D) đã nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C số tiền 1.700.000đ để khắc phục cho ông Trần Văn Th. Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C đã trao trả cho ông Trần Văn Th số tiền 1.700.000đ. Ngày 31/10/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C trả cho Nguyễn Hải D chiếc xe mô tô hiệu ESPERO biển số kiểm soát 69AA-028.54.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Lưu Văn T đã thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Hiện cháu Nguyễn Hải D, cháu Nguyễn Vĩnh P và đại diện hợp pháp của các cháu không ai có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự. Ông Nguyễn Tân T cũng không yêu cầu Lưu Văn T trả lại cho ông số tiền 1.700.000đ mà ông đã khắc phục cho ông Trần Văn Th.

Đi với ông Trần Văn Th: Khi mua tài sản Lưu Văn T bán, ông Th không biết là tài sản do T phạm tội mà có nên không đề cập xử lý.

Tại cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 24/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau đã truy tố Lưu Văn T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh Cà Mau thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lưu Văn T theo cáo trạng số: 35/CT-VKS ngày 24/01/2019 và đề nghị:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lưu Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm s khoản Điều 51, điểm h, i Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lưu Văn T từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

- Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô hiệu ESPERO biển số kiểm soát 69AA-028.54, đã trao trả lại cho bị hại, nên không đặt ra việc xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp, được thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.

[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Bị hại là cháu Nguyễn Hải D, đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Hải D là ông Nguyễn Tân T và bà Trương Thị S, đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Vĩnh P là ông Nguyễn Phước V, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Tân T vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy những người vắng mặt đều đã được tòa án triệu tập hợp lệ, quá trình điều tra đã có lời khai của bị hại, có sự chứng kiến của đại diện hợp pháp của bị hại; tại phiên tòa có mặt cháu Nguyễn Vĩnh P, có bà Lê Thị N là đại diện hợp pháp của cháu P, nên việc vắng mặt của những người tham gia tố tụng nêu trên không ảnh hưởng đến nội dung xét xử vụ án. Dó đó Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự, tiến hành xét xử vụ án vắng mặt cháu D, bà S, ông T và ông V theo quy định pháp luật.

[3] Về hành vi phạm tội và mức lượng hình:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lưu Văn T hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Theo đó thể hiện: Khoảng 11 giờ ngày 16/10/2018 tại khu vực ấp B, xã L, thành phố C, tỉnh Cà Mau, Lưu Văn T đã có hành vi tiếp cận cháu Nguyễn Hải D và cháu Nguyễn Vĩnh P rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt xe mô tô hiệu ESPERO biển số kiểm soát 69AA-028.54 có giá trị 12.600.000 đồng. Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp lời khai của bị hại cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với quá trình diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo. Hành vi của bị cáo là dùng thủ đoạn gian dối trong quá trình tiếp cận với cháu D và cháu P (cháu P sinh ngày 14/4/2003 – là người dưới 16 tuổi), lợi dụng sự cả tin của các cháu nhằm chiếm đoạt tài sản. Khi phạm tội, bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 12.600.000đ. Dó đó hành vi của bị cáo cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 bộ luật hình sự. Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi bị cáo đã thực hiện. Bị cáo từng bị xử phạt tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, nên lần phạm tội này của bị cáo được xem là tái phạm. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự, đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm và phạm tội đối với trẻ em theo quy định tại điểm h, i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, đề nghị áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, vi phạm pháp luật hình sự, gây mất an ninh trật tự địa phương, gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức án tương xứng với nhân thân, với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nhằm đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt. Bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là phù hợp.

[5] Về vật chứng: Chiếc xe mô tô hiệu ESPERO biển số kiểm soát 69AA- 028.54, đã trao trả lại cho bị hại, nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc xử lý.

[6] Đối với ông Trần Văn Th: Khi mua xe, ông Th không biết đây là tài sản do Lưu Văn T phạm tội mà có. Vì vậy không đề cập xử lý là phù hợp.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h, i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố bị cáo Lưu Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Lưu Văn T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 30/10/2018.

- Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (chưa nộp).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, cháu P, chị N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Cháu D, ông T, bà S, ông Vcó quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

367
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2019/HS-ST ngày 26/03/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:47/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về