TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 47/2019/HS-PT NGÀY 17/07/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 17 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 22/2019/TLPT-HS ngày 06 tháng 5 năm 2019 do có kháng cáo của các bị cáo Trần Xuân T và Trương Văn C đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2019/HS-ST ngày 26/3/2019 của Tòa án nhân dân quận HB, thành phố Hải Phòng.
Bị cáo có kháng cáo:
Trần Xuân T, sinh ngày 06/7/1989 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Số nhà 6, đường TVL, phường HV, quận HB, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn S và bà Phạm Thị M; có vợ là Nguyễn Thanh P và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 11/7/2018 đến ngày 17/8/2018 thay đổi biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh; có mặt
Trương Văn C, sinh ngày 20/7/1988 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Số nhà 16 ngõ 175 Quốc lộ 5, phường HV, quận HB, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tụ do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn C2 và bà Vũ Thị B; có vợ là Phạm Thị L và 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 28/3/2018, Công an phường HV xử phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc”; tạm giữ từ ngày 11/7/2018 đến ngày 20/7/2018 thay đổi biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh; có mặt.
Ngoài ra, có 02 bị cáo khác không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị vắng mặt do Tòa án không triệu tập
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 6 năm 2018, Trần Xuân T nhận tài khoản cá độ bóng đá ký hiệu SJK7M, mật khẩu “qqqq2222@@” qua đường links: https://bong88.com của một người tên là C1 (hiện không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) với hạn mức là 10.000 điểm (thường gọi là đô). C1 quy ước với T một điểm tương đương 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng). Khi giao tài khoản C1 không yêu cầu T phải thanh toán tiền trước, khi nào cần C1 chủ động liên lạc với T để thanh toán, nếu số điểm ít hơn 10.000 điểm thì T phải trả cho C1 tiền số tiền tương ứng với số điểm tH đi, còn nếu số điểm lớn hơn 10.000 điểm thì C1 sẽ trả cho T số tiền tương ứng với số điểm thừa ra. Do đều là người quen của T và biết T có tài khoản cá độ bóng đá nên Trương Văn C, Đào Trọng H, Nguyễn Văn T1 đã xin T cấp cho tài khoản để cá độ bóng đá. T đồng ý và chia tài khoản trên thành các tài khoản nhỏ để chuyển cho C, H, T1. T chia thành các tài khoản cụ thể như sau: Tài khoản SJK7M0122003 có hạn mức 1.000 điểm tương đương 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) giao cho Đào Trọng H; tài khoản SJK7M0122001 có hạn mức là 500 điểm tương đương 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) giao cho Nguyễn Văn T1 và tài khoản SJK7M01H2 có hạn mức 5.000 điểm tương đương 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) giao cho Trương Văn C. Việc T chia nhỏ các tài khoản cá độ bóng đá trên cho C, H, T1 được thực hiện bằng điện thoại di động có kết nối với mạng Internet tại nhà T ở số nhà 6, đường TVL, phường HV, quận HB, Hải Phòng.
Quá trình điều tra bằng nhiều biện pháp kết hợp, C an quận HB đã xác lập chuyên án nhằm triệt phá trang cá độ bóng đá trên. Sáng ngày 11/7/2018 Nguyễn Văn T1 và Đào Trọng H đã đến công an quận HB tự thú khai nhận về việc lấy trang cá độ bóng đá từ T để thực hiện hành vi cá độ bóng đá. Trên cơ sở lời khai của T1 và H, Cơ quan điều tra đã ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Trần Xuân T. Cùng ngày 11/7/2018 Trương Văn C đã ra đầu thú khai nhận về hành vi cá độ bóng đá trên tài khoản cá độ của T.
Trên cơ sở đó, Cơ quan điều tra đã làm rõ được các đối tượng đã tham gia đánh bạc trên trang cá độ bóng đá của T cụ thể như sau:
Đối với Trương Văn C: Sau khi nhận tài khoản từ T, C đưa cho T số tiền 10.000.000 đồng tiền “đặt cọc”. Sau đó tại nhà C, C đã sử dụng điện thoại di động có kết nối mạng truy cập vào tài khoản SJK7M01H2, thay mật khẩu thành “truongcong88” rồi chia thành khoản này thành hai tài khoản. Một tài khoản có tên SJK7M01H2000, C khai giao cho B1 (nhà ở khu vực NS, AD). Một tài khoản có tên SJK7M01H2001, C khai giao cho T2 (nhà ở khu vực NS, AD). C quy ước với T2 và B1 một đô (điểm) tương đương 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng). Ngày 08/7/2018 tài khoản SJK7M01H2001 đã cá độ bóng đá tổng cộng 12 kèo trong trận đấu giữa Đội tuyển Nga và Đội tuyển Croatia với 720 điểm, thắng 120 điểm. Như vậy xác định được trên tài khoản SJK7M01H2001, C đã đánh bạc trong trận Đội tuyển Nga gặp Đội tuyển Croatia ngày 08/7/2018 với tổng số điểm 840 điểm tương đương 16.800.000 đồng (mười sáu triệu tám trăm nghìn đồng). Số tiền thắng thua sau trận cá độ trên C và T chưa thanh toán với nhau.
Đối với Đào Trọng H: Sau khi nhận tài khoản SJK7M0122003 từ T, ngày 23/6/2018 H đã sử dụng điện thoại di động có kết nối mạng truy cập vào tài khoản trên trực tiếp cá độ trận đấu bóng đá giữa Đội tuyển Mexico và Đội tuyển Korea Republic 02 (hai) kèo với 550 điểm, thắng được 343,75 điểm. Như vậy trong trận bóng này H đã đánh bạc với tổng số điểm là 893,75 điểm tương đương 17.875.000 đồng (mười bảy triệu tám trăm bảy mươi lăm nghìn đồng). Trận này thắng được 6.875.000 đồng (sáu triệu tám trăm bảy mươi năm nghìn đồng), số tiền này T và H đã thanh toán với nhau.
Đối với Nguyễn Văn T1: Sau khi nhận tài khoản SJK7M0122001 từ T, ngày 01/7/2018 T1 sử dụng điện thoại di động truy cập vào tài khoản trên trực tiếp cá độ trận đấu bóng đá giữa Đội tuyển Uruguay và Đội tuyển Bồ Đào Nha 03 (ba) kèo với 225 điểm, thắng được 219 điểm. Như vậy tổng số điểm T1 đánh bạc trong trận bóng đá này là 444 điểm tương đương 8.880.000 đồng (tám triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng). Số tiền trên T1 và T chưa thanh toán với nhau.
Đối với Trần Xuân T: Ngoài các tài khoản cá độ bóng đá T đã cung cấp cho C, H, T1 nêu trên thì T chưa sử dụng tài khoản để trực tiếp tham gia cá độ bóng đá. Tuy nhiên, T là người cung cấp trang cá độ cho C, H, T1 nên T phải chịu trách nhiệm đồng phạm về hành vi đánh bạc và số tiền đánh bạc của C, H, T1 trong 03 trận bóng đá nêu trên với tổng số tiền đánh bạc là 43.475.000 đồng (bốn mươi ba triệu bốn trăm bảy lăm nghìn đồng).
Tại Bản án sơ thẩm số 11/2019/HS-ST ngày 26/3/2019, Tòa án nhân dân quận HB, thành phố Hải Phòng đã căn cứ điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 321; Điều 17, Điều 58; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 và xử phạt Trần Xuân T 36 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/7/2018 đến ngày 17/8/2018. Phạt tiền bị cáo 10.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước, Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 54; Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015; xử phạt Trương Văn C 33 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành hành án được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 11/7/2018 đến ngày 20/7/2018.
Ngoài ra, còn quyết định hình phạt của các bị cáo khác, xử lý vật chứng, tuyên nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo Bản án.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/4/2019, các bị cáo Trần Xuân T, Trương Văn C có đơn kháng cáo đều với nội dung xin được hưởng án treo và xem xét lại mức hình phạt. Tại phiên tòa, bị cáo C rút một phần kháng cáo về việc xin được hưởng án treo; bị cáo T rút một phần kháng cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt. Việc kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn luật định và việc các bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo theo đúng quy định của pháp luật nên được xem xét giải quyết.
* Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau:
Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất vụ án, hành vi phạm tội, nhân thân; vai trò, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và xử phạt bị cáo Trần Xuân T 36 tháng tù, Trương Văn C 33 tháng tù là thỏa đáng, không nặng.
Đối với kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo T: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, hiện có nghề nghiệp ổn định, bố bị cáo có tham gia kháng chiến, hiện là thương binh. Trước khi xét xử bị cáo nộp tiền phạt, tiền thu lợi bất chính và án phí theo bản án sơ thẩm. Do vậy, bị cáo T có đủ điều kiện để áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự, cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội.
Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo C: Bị cáo C tham gia đánh bạc với số tiền 16.800.000 đồng, bị cáo có 01 tiền án về hành vi đánh bạc chưa được xóa do đó, bị cáo không đủ điều kiện để được hưởng án treo. Ngoài ra, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm được các tình tiết giảm nhẹ mới nên không có căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với bị cáo C, không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm đối với C. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với bị cáo T, chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Xuân T, Trương Văn C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại giai đoạn sơ thẩm, phù hợp với lời khai của các bị cáo khác và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:
[2] Khoảng tháng 6 năm 2018, Trần Xuân T nhận tài khoản cá độ bóng đá ký hiệu SJK7M, mật khẩu “qqqq2222@@” qua đường links: https://bong88.com của một người tên là C1 (hiện không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) với hạn mức là 10.000 điểm (thường gọi là đô). C1 quy ước với T một điểm tương đương 20.000 đồng (hai mươi nghìn đồng). Khi giao tài khoản C1 không yêu cầu T phải thanh toán tiền trước, khi nào cần C1 chủ động liên lạc với T để thanh toán, nếu số điểm ít hơn 10.000 điểm thì T phải trả cho C1 tiền số tiền tương ứng với số điểm tH đi, còn nếu số điểm lớn hơn 10.000 điểm thì C1 sẽ trả cho T số tiền tương ứng với số điểm thừa ra. Do đều là người quen của T và biết T có tài khoản cá độ bóng đá nên Trương Văn C, Đào Trọng H, Nguyễn Văn T1 đã xin T cấp cho tài khoản để cá độ bóng đá. T đồng ý và chia tài khoản trên thành các tài khoản nhỏ để chuyển cho C, H, T1. T chia thành các tài khoản cụ thể như sau: Tài khoản SJK7M0122003 có hạn mức 1.000 điểm tương đương 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) giao cho Đào Trọng H; tài khoản SJK7M0122001 có hạn mức là 500 điểm tương đương 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) giao cho Nguyễn Văn T1 và tài khoản SJK7M01H2 có hạn mức 5.000 điểm tương đương 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) giao cho Trương Văn C. Việc T chia nhỏ các tài khoản cá độ bóng đá trên cho C, H, T1 được thực hiện bằng điện thoại di động có kết nối với mạng Internet tại nhà T ở số nhà 6, đường Trương Văn L1, phường HV, quận HB, Hải Phòng. Cụ thể hành vi đánh bạc của các bị cáo như sau:
[3] Ngày 08/7/2018, Trương Văn C có hành vi đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đã trận đấu giữa đội tuyển Mexico gặp đội tuyển Croatia với số tiền dùng để đánh bạc là 16.800.000 đồng.
[4] Ngày 23/6/2018, Đào Trọng H có hành vi đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá trận đấu giữa đội tuyển Mexico gặp đội tuyển Hàn Quốc với số tiền dùng để đánh bạc là 17.875.000 đồng.
[5] Ngày 01/7/2018, Nguyễn Văn T1 đã có hành vi đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá trận đấu giữa đội tuyển Uruguay gặp đội tuyển Bồ Đào Nha với số tiền dùng để đánh bạc là 8.880.000 đồng.
[6] Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần Xuân T, Trương Văn C đồng phạm với các bị cáo khác về tội “Đánh bạc” theo điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Trần Xuân T:
[7] Bị cáo Trần Xuân T không trực tiếp tham gia đánh bạc, nhưng là người cung cấp tài khoản cho các bị cáo C, H, T1 tham gia đánh bạc bằng hình thức cá cược trong 3 trận bóng đá với số tiền 43.475.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo mức hình phạt 36 tháng tù là khởi điểm của khung hình phạt đã tương xứng với vai trò, hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, là lao động chính hiện có nghề nghiệp ổn định, bị cáo có bố đẻ là thương binh loại A; sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã nộp hết số tiền phạt, tiền thu lợi bất chính và án phí. Bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo theo Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trương Văn C:
[8] Tòa án cấp sơ thẩm đã sơ thẩm đã xem xét vai trò và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo C: Bị cáo từng tham gia nghĩa vụ quân sự và có bác ruột là liệt sĩ, trước khi phạm tội bị cáo là Đảng viên, phạm tội với vai trò không đáng kể nên mức hình phạt 33 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên với bị cáo là thỏa đáng, không nặng. Mặt khác, bị cáo đã có tiền sự về hành vi đánh bạc, chưa được xóa nên bị cáo không đủ điều kiện được hưởng án treo theo Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị cáo C không cung cấp được các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[9] Với phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Xuân T; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Văn C.
[10] Về án phí: Bị cáo Trương Văn C phải nộp án phí hình sự phúc thẩm; bị cáo Trần Xuân T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm
[11] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với bị cáo Trương Văn C: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Văn C và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với bị cáo Trần Xuân T: Giữ nguyên mức hình phạt tù đối với bị cáo Trần Xuân T, nhưng cho bị cáo hưởng án treo.
2. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 và xử phạt Trương Văn C 33 (Ba mươi ba) tháng tù về tội “Đánh bạc”; thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được trừ các ngày tạm giữ từ ngày 11/7/2018 đến ngày 20/7/2018.
Căn cứ điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38, Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 và xử phạt Trần Xuân T: 36 (Ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc’, thời gian thử thách là 5 (Năm) năm, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Trần Xuân T cho Ủy ban nhân dân phường HV, quận HB, thành phố Hải Phòng theo dõi giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ C dân 2 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Ghi nhận việc bị cáo Trần Xuân T đã nộp tiền thu lợi bất chính, tiền phạt bổ sung và án phí theo các biên lai thu tiền số 7335, 7336 và 7337 ngày 11/6/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận HB.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Trương Văn C phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của Bản án số 11/2019/HS-ST ngày 26/3/2019 của Toà án nhân dân quận HB, thành phố Hải Phòng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 47/2019/HS-PT ngày 17/07/2019 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 47/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về