Bản án 47/2019/DS-ST ngày 01/11/2019 về tranh chấp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 47/2019/DS-ST NGÀY 01/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỤI 

Ngày 01 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 153/2019/TLST-DS ngày 16/9/2019 về “Tranh chấp hụi” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2019/QĐXXST-DS ngày 22/10/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Võ Thị Kim Đ, sinh năm 1988. Địa chỉ: ấp 1, xã H, huyện V, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1979. Địa chỉ: ấp 1, xã H, huyện V, tỉnh Long An.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 10/9/2019 và những lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Võ Thị Kim Đ trình bày:

Năm 2016 bà có tham gia một số dây hụi do bà Nguyễn Thị X làm chủ thảo, sau đó bà hốt hụi và đến tháng 9/2018 âm lịch (al) bà X ngưng hụi và thương lượng hoàn tiền lại cho bà nhưng đến nay vẫn chưa trả cho bà với số tiền 58.100.000 đồng, cụ thể như sau:

- Dây hụi tháng 500.000 đồng, một tháng khui 01 lần có 34 phần, bắt đầu khui ngày 05/12/2016 (al) đến ngày 05/8/2019 (al) mãn hụi, bà tham gia 01 phần, bà đóng hụi đến ngày 05/9/2018 (al) được 23 lần thì bà X ngưng hụi và thương lượng hoàn trả tiền lại cho bà số tiền 10.800.000 đồng nhưng đến nay chưa trả.

- Dây hụi tháng 500.000 đồng, một tháng khui 01 lần có 34 phần, bắt đầu khui ngày 05/12/2016 (al) đến ngày 05/8/2019 (al) mãn hụi, bà tham gia 01 phần, bà đóng hụi đến ngày 05/9/2018 (al) được 22 lần thì bà X ngưng hụi và thương lượng hoàn trả tiền lại cho bà số tiền 10.800.000 đồng. Sau đó bà X trả được 7.300.000 đồng, còn lại 3.500.000 đồng đến nay chưa trả.

- Dây hụi tháng 500.000 đồng, một tháng khui 01 lần có 34 phần, bắt đầu khui ngày 05/12/2016 (al) đến ngày 05/8/2019 (al) mãn hụi, bà tham gia 01 phần, bà đóng hụi đến ngày 05/9/2018 (al) được 23 lần thì bà X ngưng hụi và thương lượng hoàn trả tiền lại cho bà số tiền 10.800.000 đồng nhưng đến nay chưa trả.

- Dây hụi tháng 2.000.000 đồng, hai tháng khui 01 lần có 16 phần, bắt đầu khui ngày 15/10/2016 (al) đến ngày 15/3/2019 (al) mãn hụi, bà tham gia 01 phần, bà đóng hụi đến ngày 15/10/2018 (al) được 13 lần, lần thứ 14 bỏ thăm hốt hụi và trừ hụi chết 02 lần nên còn số tiền 22.000.000 đồng nhưng bà X chưa trả.

- Dây hụi vụ 5.000.000 đồng, một năm khui 02 lần có 13 phần, bắt đầu khui vụ đông xuân 2016 đến vụ đông xuân 2022 mãn hụi, bà tham gia 01 phần, bà đóng hụi được 07 lần thì bà X ngưng hụi và thương lượng hoàn trả tiền lại cho bà số tiền 30.000.000 đồng nhưng đến nay chưa trả.

Bà khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị X trả số tiền 58.100.000 đồng.

Tại phiên tòa bà chỉ yêu cầu bà Nguyễn Thị X trả số tiền 41.000.000 đồng. Tại bản tự khai ngày 18/10/2019 bà Nguyễn Thị X trình bày:

Trong năm 2016 bà có mở một số dây hụi (do bà làm chủ thảo) bao gồm 03 dây hụi tháng 500.000 đồng, một dây hụi tháng 2.000.000 đồng và 01 dây hụi vụ 5.000.000 đồng. Các dây hụi trên hiện đã ngưng khui hụi. Sau khi ngưng hụi giữa bà và bà Đ có thỏa thuận và thống nhất 03 dây hụi tháng 500.000 đồng và dây hụi tháng 2.000.000 đồng bà còn thiếu bà Đ tổng cộng số tiền 40.000.000 đồng. Thỏa thuận trả theo vụ lúa, mỗi vụ trả 10.000.000 đồng, bà đã trả được 02 lần cụ thể: Đông xuân 2019 trả 10.000.000 đồng (tháng 3 năm 2019), hè thu 2019 (tháng 6 năm 2019) trả 9.000.000 đồng. Hiện còn thiếu số tiền 21.000.000 đồng. Số tiền 21.000.000 đồng bà đồng ý trả cho bà Đ, cụ thể đông xuân 2020 (tháng 4 năm 2020) trả 10.000.000 đồng, hè thu 2020 (tháng 6 năm 2020) trả 11.000.000 đồng.

Đối với dây hụi vụ 5.000.000 đồng, hụi khui đến lần thứ 6 thì ngưng, dây hụi này bà thống nhất còn thiếu 30.000.000 đồng. Nhưng bà Đ có nói đến ngày 30/9/2019 (al) trả cho bà Đ 5.000.000 đồng thì giữa bà và bà Đ thỏa thuận bà còn thiếu bà Đ 25.000.000 đồng. Dây hụi này hiện tại bà còn thiếu bà Đ 20.000.000 đồng. Do hiện hoàn cảnh khó khăn nên xin trả dần cụ thể: Ngày 28/10/2019 trả 5.000.000 đồng, ngày 28/6/2020 trả 5.000.000 đồng, ngày 28/6/2021 trả 5.000.000 đồng, ngày 28/6/2022 trả 5.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Thẩm quyền giải quyết vụ án: Xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là tranh chấp hụi, bị đơn bà Nguyễn Thị X có nơi cư trú tại ấp 1, xã H, huyện V, tỉnh Long An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thời hiệu khởi kiện: Các đương sự không ai yêu cầu áp dụng nên căn cứ Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử không áp dụng các quy định về thời hiệu trong vụ án này.

[3] Về việc vắng mặt của bị đơn: Bị đơn bà Nguyễn Thị X có văn bản vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử.

[4] Về nội dung khởi kiện:

Bà Võ Thị Kim Đ và bà Nguyễn Thị X trình bày thống nhất về việc bà Đ có tham gia 05 dây hụi bắt đầu khui từ năm 2016 cụ thể là 03 dây hụi tháng 500.000 đồng, 01 dây hụi tháng 2.000.000 đồng và 01 dây hụi vụ 5.000.000 đồng do bà X làm chủ thảo, các dây hụi đã ngưng và có thỏa thuận bà X hoàn lại tiền cho bà Đ.

Tại đơn khởi kiện bà Đ yêu cầu bà X trả 58.100.000 đồng, bà X chỉ thống nhất còn thiếu bà Đ 41.000.000 đồng. Tại phiên tòa bà Đ cũng đồng ý chỉ yêu cầu bà X trả 41.000.000 đồng. Bà X đã vi phạm nghĩa vụ sau khi ngưng hụi đối với bà Đ nên phải có nghĩa vụ trả số tiền 41.000.000 đồng cho bà Đ theo Điều 471 Bộ luật Dân sự.

Đối với yêu cầu xin trả dần theo mỗi vụ lúa của bà X không được bà Đ chấp nhận và pháp luật không quy định việc trả dần nên không có căn cứ chấp nhận.

[5] Về án phí: Bà Võ Thị Kim Đ được chấp nhận yêu cầu nên được hoàn lại tiền tạm ứng án phí. Bà Nguyễn Thị X phải chịu án phí theo quy định của pháp luật đối với số tiền phải trả cho bà Đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92, 147, 184, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 479 Bộ luật Dân sự năm 2005; Căn cứ Điều 471, Điều 357 và Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015; Căn cứ Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ quy định về hụi, họ, biêu, phường; Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Kim Đ về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị X trả 41.000.000 đồng.

Buộc bà Nguyễn Thị X có nghĩa vụ trả cho bà Võ Thị Kim Đ số tiền 41.000.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí:

Buộc bà Nguyễn Thị X phải nộp 2.050.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.

Hoàn lại cho bà Võ Thị Kim Đ 1.452.500 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Hưng ngày 16/9/2019 theo biên lai thu số 0004614.

Báo cho nguyên đơn được biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2019/DS-ST ngày 01/11/2019 về tranh chấp hụi

Số hiệu:47/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Hưng - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 01/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về