Bản án 47/2018/HS-ST ngày 01/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU – TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 47/2018/HS-ST NGÀY 01/10/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2018/TLST- HS ngày 06 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:44/2018/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Trung T, sinh năm: 1994 tại huyện Z, tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: ấp X, xã Y, huyện Z, tỉnh Tây Ninh;nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Th và bà Vương Thị N; Vợ, con: không có; tiền án,tiền sự: không có. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24-7-2018 cho đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Vương Thị N sinh năm 1977. Địa chỉ: ấp X, xã Y, huyện Z, tỉnh Tây Ninh. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 16 giờ ngày 24-7-2018, tại quán cà phê không tên thuộc khu phố 4, thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tây Ninh phối hợp cùng Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh phát hiện Lê Trung T đang bán một bịch nilon màu trắng được hàn kín hai đầu bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy) cho Nguyễn Văn Th với giá tiền 300.000 đồng, cùng đi với Th có Nguyễn Văn T nên bắt quả tang, tạm giữ người và vật chứng để làm rõ.

Quá trình điều tra, T khai nhận: Là đối tượng nghiện ma túy nên thường xuyên mua ma túy của người tên Đ (không rõ lai lịch) để sử dụng và bán cho những người nghiện khác để kiếm lời. Cụ thể: vào tháng 6 và tháng 7-2018, T mua ma túy của Đ 04 lần với số tiền 1.000.000 đồng để sử dụng và bán cho Nguyễn Văn Th 02 lần, bán cho người tên Đ1 (không rõ lai lịch) 02 lần.

Lần thứ nhất: Vào khoảng 08 giờ ngày 15-6-2018, T bán cho Đ1 01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng tại ngã ba Bàu Tràm thuộc ấp Bàu Tràm Lớn, xã Tiên Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh.

Lần thứ hai: Vào khoảng 14 giờ ngày 27-6-2018, tại khu vực vườn thanh long thuộc ấpBàu Tràm Lớn, xã Tiên Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, T tiếp tục bán cho Đ1 01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng.

Lần thứ ba: Vào khoảng 16 giờ ngày 14-7-2018, tại quán cà phê T thuộc ấp Ngã Tắc, xã Long Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, T bán cho Nguyễn Văn Th 01 bịch ma túy với giá 300.000 đồng.

Lần thứ tư: Vào khoảng 16 ngày 24-7-2018, T tiếp tục bán cho Nguyễn Văn Th 01 bịch ma túy với giá 300.000 đồng tại quán cà phê không tên thuộc khu phố 4, thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh thì bị bắt quả tang.

Kết luận giám định số: 861/KL-KTHS ngày 25-7-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh xác định: Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nilon màu trắng (ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy tên gọi Methamphetamine có khối lượng 0,0511 gam.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chất: Có bảng thống kê kèm theo. 

Lê Trung T không có tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh không kê biên tài sản.

Người đàn ông tên Đ bán ma túy cho T không rõ lai lịch nên chưa làm việc được, khi nào làm việc được xử lý sau. Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn Th và Lê Văn T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt hành chính xong.

Lê Trung T khai bán ma túy cho Đ1 02 lần, nhưng ngoài lời khai của T không còn gì khác chứng minh nên không đủ cơ sở để xử lý T về 02 lần bán ma túy này. Người tên Đ chưa làm việc được, khi nào làm việc được xử lý sau.

Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, vật chứng bị thu giữ như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số: 45/QĐ-KSĐT ngày 06 tháng 9 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã truy tố Lê Trung T về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng cũng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:Áp dụng điểm b Khoản 2 Điều 251; điểm r, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Lê Trung T từ 08 (tám) năm đến 09(chín) năm tù. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo qui định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Ngày 24-7-2018, tại khu phố 4, thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Lê Trung T bán 01 bịch ma túy cho Nguyễn Văn Th với giá 300.000 đồng thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ 01 bịch nylon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng.Kết luận giám định số: 861/KL- KTHS, ngày 25-7-2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: chất tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nylon màu trắng là chất ma túy tên gọi Methamphetamine có khối lượng 0,0511 gam. Ngoài ra, bị cáo T còn khai nhận bán 01 bịch ma túy cho Nguyễn Văn Th vào ngày 14-7-2018, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với chứng cứ thu thập được.Do đó, có đủ căn cứ kết luận hành vi của Lê Trung T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung hình phạt là “Phạm tội 02 lần trở lên” theo qui định tại điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng. Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh tại địa phương và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Nên cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm mới tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Khi quyết định hình phạt, có xem xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo thì thấy: bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nhận tội và khai báo hành vi phạm tội khi chưa bị phát hiện là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s, r Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự sẽ được áp dụng cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về hình phạt bổ sung, theo qui định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là không có nghề nghiệp, không có tài sản, đang ở cùng với gia đình, điều kiện kinh tế khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn Th và Lê Văn T bị Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xử phạt hành chính. Người đàn ông tên Đ bán ma túy cho T không rõ lai lịch nên chưa làm việc được, khi nào làm việc được xử lý sau. Đối với người tên Đ1, T khai mua ma túy của T 02 lần, nhưng ngoài lời khai của T không có chứng cứ chứng minh nên không đủ cơ sở để xử lý T về 02 lần bán ma túy này. Người tên Đ1 chưa làm việc được, khi nào làm việc được xử lý sau.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) gói niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninhlà chất ma tuý nên cần tịch thu tiêu huỷ.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu NOKIA 1202, màu xám xanh, số seri 35524403286584; 01 (một) điện thoại di dộng hiệu NOKIA, màu đen, số IMEL 357342086331027; 01 (một) điện thoại di dộng hiệu NOKIA, màu đen, số seri 357141069490093 là tài sản của bị cáo đã được chuyển sang cơ quan thi hành án. Trong đó bị cáo dùng điện thoại di động hiệu NOKIA 1202 vào việc mua bán ma túy nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Đối với 02 (hai) điện thoại NOKIA còn lại của bị cáo không phải là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, lẽ ra cần trả lại cho bị cáo, tuy nhiên cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 (một) bóp da màu nâu và 01 (một) cây kéo kim loại màu trắng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy

- Đối với số tiền Việt Nam 1.200.000 đồng trong đó có 300.000 đồng tiền bán ma túy nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước, còn lại 900.000 đồng là tiền của bà Vương Thị N nên trả lại cho bà Nằng.

[8] Về án phí: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Trung T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b Khoản 2 Điều 251; điểm r,s Khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Trung T 08 (tám) nămtù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24 tháng 7 năm 2018.

2. Biện pháp tư pháp:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di dộng hiệu NOKIA 1202, màu xám xanh, số seri 35524403286584.

- Tạm giữ 01 (một) điện thoại di dộng hiệu NOKIA, màu đen, số IMEL357342086331027 và 01 (một) điện thoại di dộng hiệu NOKIA, màu đen, số seri 357141069490093 để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) bóp da màu nâu và 01 (một) cây kéo kim loại màu trắng.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 300.000 (ba trăm nghìn) đồng; trả lại cho bà Vương Thị N 900.000 (chín trăm nghìn) đồng. (theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13-9-2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.Buộc bị cáo Lê Trung T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Trung T, bà Vương Thị N được quyền kháng cáo theo trình tự thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2018/HS-ST ngày 01/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:47/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về