Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 31/08/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 47/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 31 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 127/2018/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2018 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2018/QĐXXST–HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Trần Văn C, sinh năm 1978 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp G, thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh S.

Bị đơn: Chị Triệu Thị D, sinh năm 1980 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Đ, thị trấn TĐ, huyện TĐ, tỉnh S.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn anh Trần Văn C trình bày:

Anh Trần Văn C với Triệu Thị D kết hôn với nhau năm 2000. Đến năm 2009 mới đăng ký kết hôn (đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TB và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 49 ngày 05 tháng 3 năm 2009). Sau khi kết hôn hai vợ chồng ra riêng. Thời gian đầu hai người sống hạnh phúc. Đến năm 2013, chị D bỏ nhà ra đi đến nay không quay về, hai người ly thân từ đầu năm 2013 đến nay. Nay anh C xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với chị D.

Trong quá trình chung sống anh C và chị D có ba con chung tên Trần Thị T, sinh ngày 23/12/2001; Trần Thị T1 sinh ngày 14/10/2003 và Trần Văn H, sinh ngày 13/02/2009 cả ba đang sống cùng anh C.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Chị Triệu Thị D không có lời trình bày do vắng mặt.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã ban hành thông báo thụ lý số 127/TB- TLVA ngày 20 tháng 6 năm 2018, tống đạt hợp lệ cho bị đơn chị Triệu Thị D nhưng chị D không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của anh Trần Văn C. Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ hai lần đối với chị D để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị D đều vắng mặt không có lý do. Tòa án đã lập biên bản về việc vắng mặt chị D, không tiến hành hòa giải được và chị D cũng không có lời khai trong hồ sơ vụ án. Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Tính đến ngày Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, vụ án còn trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về hôn nhân: Cho anh Trần Văn C ly hôn với Triệu Thị D. Về con chung: Giao con cho anh C trực tiếp nuôi, chị D không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn anh Trần Văn C có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Tại phiên tòa hôm nay chị Triệu Thị D mặc dù đã được tống đạt giấy triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do đó Tòa án căn cứ vào khoản 1 Điều 228 và điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt đối với anh C và chị D.

[2] Về nội dung: Anh Trần Văn C yêu cầu Toà án cho ly hôn với chị Triệu Thị D. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Trần Văn C với chị Triệu Thị D là hôn nhân hợp pháp (hai người có đăng ký kết hôn). Trước khi kết hôn hai người có tìm hiểu nhau trước, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2013, thì chị D bỏ nhà ra đi. Hai người không còn chung sống với nhau từ ngày 25/5/2013, thời gian ly thân vợ chồng không ai tới lui, chăm sóc nhau, trong giai đoạn hòa giải anh C kiên quyết yêu cầu ly hôn nên xét thấy tình trạng hôn nhân của hai người đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó anh C yêu cầu được ly hôn với chị D là có căn cứ được quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Cả ba cháu Trần Thị T, sinh ngày 23/12/2001; Trần Thị T1 sinh ngày 14/10/2003 và Trần Văn H, sinh ngày 13/02/2009 đang sống cùng anh C. Về nguyên tắc việc trông nom, chăm sóc con chung là nghĩa vụ của cha mẹ. Anh C yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con, xét thấy anh C có đủ điều kiện nuôi con và các con cũng có nguyện vọng sống cùng với anh C nên yêu cầu này của anh C là có căn cứ được quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định tại Điều 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con do anh C không yêu cầu nên chị D không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Anh C trình bày không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do anh C yêu cầu nên anh C phải chịu theo luật định.

[8] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, anh Trần Văn C.

- Về hôn nhân: Anh Trần Văn C được quyền ly hôn với chị Triệu Thị D.

- Về con chung: Giao cháu Trần Thị T, sinh ngày 23/12/2001; Trần Thị T1 sinh ngày 14/10/2003 và Trần Văn H, sinh ngày 13/02/2009 cho anh Trần Văn C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị Triệu Thị D không phải cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh Trần Văn C không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về án phí dân sự sơ thẩm:  Nguyên đơn anh Trần Văn C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2015/0009637 ngày 19/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy anh C đã nộp xong án phí.

Án sơ thẩm được xét xử công khai báo cho các đương sự biết có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 31/08/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:47/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về