Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 25/09/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 47/2018/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 25 tháng 9 năm 2018 tại phòng xử án Toà án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 246/2018/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2018 về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2018/QĐXXST - HNGĐ ngày 24/8/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Lê Thị Hồng P, sinh năm 1984 ( có mặt)

Địa chỉ: khu phố 4 phường T.T, thành phố P, Ninh Thuận.

Hiện tạm trú: khu phố 8, thị trấn P. D, huyện N. P, tỉnh Ninh Thuận.

Bị đơn: Ông Phan Việt H, sinh năm 1976 ( vắng mặt)

Địa chỉ: khu phố 4 phường T. T, thành phố P, Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyênđơn là bà Phạm Lê Thị Hồng P trình bày: bà và ông Phan Việt H tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn P. D vào năm 2005, sau đó chuyển về sinh sống tại phường T. T. Quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn vì ông H đam mê rượu chè không chăm lo kinh tế gia đình, bỏ bê, không quan tâm đến vợ con, vợ chồng thường xuyên xảy ra cải vã. Không chịu đựng được nữa bà đã dẫn con về sống ở nhà cha mẹ ruột ở huyện N. P từ tháng 9/2014 cho đến nay và không còn quan tâm gì đến nhau. Nay tình cảm không còn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông H.

Về con chung: có 02 người con là Phan Hồng Đ, sinh ngày 23/11/2005; Phan Nhật Q, sinh ngày 14/6/2007; Các con hiện đang sống cùng bà, bà xin được nuôi cả02 con và không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu giải quyết.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Phan rang – Tháp chàm phát biểu: Từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án, việc thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự, việc cấp, tống đạt các giấy tờ cho Viện Kiểm sát và những người tham gia tố tụng đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự; Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định về phiên tòa sơ thẩm; người tham gia tố tụng là nguyên đơn được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn vắng mặt và Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là đúng pháp luật.

Quan điểm của Viện kiểm sát cho rằng hôn nhân giữa bà P và ông H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà P ly hôn với ông H. Về con chung giao 02 cháu Đ, Q cho bà P nuôi dưỡng, ông H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng:

- Sự vắng mặt của đương sự: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các Thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và 02 lần Thông báo hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

- Quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là vụ án tranh chấp về “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo khoản 1 Điều 28, khoản 1 điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Thành phố Phan rang- Tháp chàm.

Về nội dung:

[1] Quan hệ hôn nhân: giữa bà P và ông H chung sống hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn do ông H còn ham chơi, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tôn trọng danh dự, nhân phẩm cho nhau. Theo cung cấp của Chính quyền địa phương nơi cư trú thì “ông H, bà P quá trình chung sống có mâu thuẫn, cải vã, đã sống ly thân và không còn quan tâm chăm sóc gì đến nhau”. Đồng thời, trong thời gian sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay ông H, bà P đã không còn sum họp, dung hòa được cuộc sống chung và cũng không có sự quan tâm, chia sẻ, gắn bó lẫn nhau. Hơn nữa, ông H biết việc ly hôn nhưng cũng không có mặt để được Tòa án hòa giải, chứng tỏ ông đã bỏ mặc hôn nhân. Xét tình trạng hôn nhân giữa bà P và ông H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, cả hai đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng.

Về con chung: bà P có nguyện vọng được nuôi dưỡng 02 con chung chưa thành niên là Phan Hồng Đ, sinh ngày 23/11/2005; Phan Nhật Q, sinh ngày 14/6/2007và không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng. Xét các con chung có nguyện vọng ở với mẹ và hiện đang do bà P trực tiếp nuôi dưỡng, ông H cũng không tranh chấp nuôi con. Mặc khác, bà P có đủ điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng, từ khi ông H và bà P ly thân cho đến con chung ở với bà P vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt.

Xét quan điểm của Viện kiểm sát và yêu cầu của nguyên đơn về quan hệ hôn nhân cũng như việc giải quyết con chung đều có căn cứ phù hợp điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 điều 147 của BLTTDS năm 2015; điểm a khoản 5 điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về hôn nhân) không có giá ngạch.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;khoản 4 điều 147, điểm b khoản 2 điều 227; khoản 3 điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Phạm Lê Thị Hồng P đối với bị đơn là ông Phan Việt H.

Về hôn nhân: bà Phạm Lê Thị Hồng P được ly hôn với ông Phan Việt H.

Về con chung: Bà Phạm Lê Thị Hồng P có quyền và nghĩa vụ trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng 02 con chung chưa thành niên là Phan Hồng Đ,sinh ngày 23/11/2005; Phan Nhật Q, sinh ngày 14/6/2007. Ông Phan Việt H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Không ai được quyền ngăn cản việc ông H thực hiện quyền thăm nom conchung.

Về án phí: bà Phạm Lê Thị Hồng P phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn), nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0016774 ngày 03/5/2018 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố Phan rang – Tháp chàm. Bà P đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm.

Án sơ thẩm xử công khai có mặt nguyên đơn - quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (25/9/2018); vắng mặt bị đơn - quyền kháng cáo trong hạn15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 47/2018/HNGĐ-ST ngày 25/09/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:47/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về