Bản án 471/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 471/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 11 năm 2020 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thấm thụ lý số 439/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 468/2020/QĐXX-HS ngày 26/10/2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn V, sinh năm 1998 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm 11, xã M, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 09/12; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; dân tộc: Kinh; con ông Phạm Văn H, sinh năm: 1960 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm: 1961; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 30/01/2019 bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 27/2019/QĐ-TA, chấp hành xong ngày 29/5/2020; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/8/2020, có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1992; địa chỉ: số A, khu phố B, phường A, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Đăng T, sinh năm 1988; địa chỉ: A, tổ B, khu phố Đ, phường B, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

- Người làm chứng: Chị Phạm Thị Mỹ L, sinh năm 1972; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn V quen biết một người tên S (không rõ nhân thân lai lịch). Ngày 02/8/2020, V và S hẹn gặp tại quán cà phê không tên thuộc khu phố Đồng An, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, tại đây, S rủ V đi tìm xe ba gác máy để lấy trộm và hướng dẫn cho V cách thức cắt, nối đầu dây điện nguồn ổ khóa xe. Đến khoảng 14 giờ ngày 05/8/2020, S điện thoại cho V rủ V đi làm nhưng không nói rõ là làm gì và hẹn gặp nhau tại cây xăng đối diện Quân Đoàn 4, sau đó V xóa số điện thoại của S. Khoảng 20 phút sau V đến thì tên S nói V đi lấy xe ba gác máy về cho S, V đồng ý. S điều khiển xe mô tô Exciter màu đen không rõ biển số chở V chạy lòng vòng trên địa bàn phường An Bình, khi đến trước cửa nhà số 163/54 khu phố Bình Đường 3, phường An Bình thì phát hiện xe ba gác máy biển số 61C1-761.31 của anh Nguyễn Văn K đang dựng ở lề đường trước nhà anh K. S dừng xe cách xe ba gác của anh K khoảng 10m, lúc này S đưa cho V một túi xách bên trong có 01 kìm cộng lực, 01 cái kéo, S bảo V đến lấy xe còn S đứng cảnh giới. V cầm túi xách đi bộ đến tiếp cận xe ba gác và dùng kìm cộng lực cắt đứt ổ khóa Việt Tiệp đang khóa xe ba gác, rồi tiếp tục dùng kéo cắt dây ổ điện đấu nối lại và lên xe nổ máy. Anh K nghe động nên đi ra thì phát hiện V đang lấy trộm xe liền tri hô “trộm, trộm”, nghe tiếng tri hô V điều khiển xe chạy được 02m thì buông bỏ xe chạy bộ, chạy được khoảng 30m thì V bị anh K cùng người dân đuổi theo bắt giữ giao cho công an phường An Bình lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ:

01 xe ba gác máy nhãn hiệu Chituma màu đỏ, biển số 610-761.31, số khung: KZL771860888; số máy: 2FMJ07257606; 01 kìm cộng lực dài 40cm; 01 đoạn dây xích bàng kim loại dài 01m; 01 ổ khóa Việt Tiệp bị cắt đứt; 01 cây kéo cán nhựa màu xanh dài 15 cm.

Căn cứ kết luận định giá tài sản số 126/KLĐG-HĐĐGTS ngày 10/8/2020 của Hội đồng định giá thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, kết luận: 01 xe mô tô ba gác máy hiệu Chituma màu đỏ biển số 61C1-761.31 (Số khung KZL771860888; số máy: 2FMJ07257606) trị giá 55.000.000 đồng;

Đối với đối tượng tên S hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau.

Tại cáo trạng số 470/CT - VKS ngày 14 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phạm Văn V về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c, khoản 2 Điều 173; điểm h, S khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Văn V mức án từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 kiềm cộng lực dài 40cm; 01 đoạn dây xích bằng kim loại dài 01m; 01 ổ khóa Việt Tiệp bị cắt đứt; 01 cây kéo cán nhựa màu xanh dài 15cm là công cụ bị cáo V sử dụng thực hiện hành vi phạm tội.

Về trách nhiệm dân sự: Anh K đã nhận lại tài sản là 01 xe ba gác máy nhãn hiệu Chituma màu đỏ, biển số 61C1-761.31, số khung: KZL771860888; số máy: 2FMJ07257606 và không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự nên không đề nghị xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn V không tranh luận, không đối đáp và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại cơ quan điều tra, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa bị cáo V khai nhận vào lúc 14 giờ ngày 05/8/2020, tại nhà số 163/54 khu phố Bình Đường 3, phường An Bình, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, bị cáo V đã có hành vi lén lút chiếm đoạt xe ba gác máy hiệu Chituma màu đỏ, số khung KZL771860888; số máy: 2FMJ07257606 có giá trị 55.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn K. Xét, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của chính bị cáo, bị hại, người làm chứng tại cơ quan điều tra và phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án là Kết luận định giá tài sản số 126/KLĐG-HĐĐGTS. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 470/CT - VKS ngày 14 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản bị chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho bị hại là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, S khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử sẽ áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người không nghề nghiệp ổn định, chưa có tiền án, tiền sự.

[7] Về xử lý vật chứng: 01 kiềm cộng lực dài 40cm; 01 đoạn dây xích bằng kim loại dài 01m; 01 ổ khóa Việt Tiệp bị cắt đứt; 01 cây kéo cán nhựa màu xanh dài 15cm là công cụ bị cáo V sử dụng thực hiện hành vi phạm tội không còn giá trị sử dụng nên tuyên tịch thu tiêu hủy.

[8] Trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.

[9] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[10] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[11] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn V phạm tội trộm cắp tài sản.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn V 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/8/2020.

2. Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) kiềm cộng lực dài 40cm; 01 (một) đoạn dây xích bằng kim loại dài 01m; 01 (một) ổ khóa Việt Tiệp bị cắt đứt; 01 (một) cây kéo cán nhựa màu xanh dài 15cm.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/10/2020 - BL số 110)

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Phạm Văn V phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 471/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:471/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về