Bản án 462/2019/HNGĐ-ST ngày 31/10/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình - ly hôn và nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG 

BẢN ÁN 462/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH - LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN 

Trong ngày 31 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 212/ 2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2019, về tranh chấp “Hôn nhân gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 166/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 9 năm 2019 giữa:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1987.

Đa chỉ: Tổ 2, ấp Hòa A, xã Hòa L, huyện Phú T, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Chị Ngô Thị R, sinh năm 1988.

Đa chỉ: Tổ 15, ấp Bình Ph 1, xã Phú B, huyện Phú T, tỉnh An Giang.

(Anh T có mặt, chị R vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 02/5/2019, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn anh Nguyễn Văn T trình bày: Sau khi tìm hiểu và được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Lạc, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, giấy chứng nhận kết hôn số 69, quyển số 01/2010, ngày 15/4/2010, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cự cãi, bất đồng quan điểm, nguyên nhân chủ yếu về công việc làm ăn và vấn đề tiền bạc, đến tháng 01/2019 chị R về nhà cha mẹ ruột sinh sống, vợ chồng chính thức ly thân đến nay. Hiện tình cảm không còn, đời sống chung không thể kéo dài, yêu cầu ly hôn với chị Ngô Thị R.

Về con chung: có 01, tên Nguyễn Bích Kh, sinh ngày 12/02/2012, hiện đang sống chung với anh T, anh T yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu chị R cấp dưỡng cho con Về tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về nợ chung phải thu, phải trả: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn chị Ngô Thị R đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do, không có lời trình bày.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên chị R vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án là chấp hành pháp luật chưa nghiêm.

- Về nội dung: Hôn nhân của anh T, chị R được xác lập trên cơ sở tự tìm hiểu, tự nguyện, cha mẹ hai bên đều đồng ý có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ; quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, từ khi ly thân đến nay không hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu của anh T xin ly hôn và nuôi con chung là có căn cứ, tài sản chung và nợ chung không đề cập giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, sau khi nghe Kiểm sát viên phát biểu việc tuân theo pháp luật tố tụng và đề xuất nội dung giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Anh Nguyễn Văn T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị Ngô Thị R, yêu cầu được nuôi con chung nên xác định quan hệ pháp luật “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết: Chị Ngô Thị R là bị đơn có nơi cư trú tại ấp Bình Phú 1, xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.

Chị Ngô Thị R đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị R theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Anh Nguyễn Văn T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị Ngô Thị R, yêu cầu được nuôi con chung. Xét chứng cứ có trong hồ sơ cùng kết quả hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa thể hiện, hôn nhân của anh, chị được xác lập năm 2010 trên cơ sở tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, anh chị không ai quan T ai, vợ chồng chính thức ly thân từ tháng 01/2019 đến nay, cả hai không hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; điều này phù hợp lời trình bày của chị Ngô Thị Ral (chị ruột của chị Ngô Thị R), do đó, anh Nguyễn Văn T yêu cầu ly hôn là có căn cứ được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Về nuôi con chung: Anh, chị có 01 con chung tên Nguyễn Bích Kh, sinh ngày 12/02/2012. Xét, từ khi ly thân đến nay cháu Bích Kh do anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục, đảm bảo phát triển bình thường về thể chất, tinh thần, cháu có nguyện vọng sống với cha, căn cứ quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, cần giao cháu Bích Kh cho anh T tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con đến thành niên hoặc tự lập được; chị R không phải cấp dưỡng cho con; anh T phải tạo mọi điều kiện thuận lợi khi chị R đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở. Trường hợp, người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con; mặt khác, nếu có căn cứ cho rằng, anh T không còn đảm bảo các điều kiện nuôi dạy con hoặc có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung; nợ chung phải thu, phải trả: Các bên không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Ghi nhận lời trình bày đương sự không có nợ chung, nhưng sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì anh T, chị R phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

Ngoài ra, các bên không tranh chấp về vấn đề gì khác nên không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí: Anh Nguyễn Văn T phải án phí theo qui định pháp luật. Chị R không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 26; khoản 5, khoản 6 Điều 27 và khoản 1 Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Xử:

Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn T được ly hôn với chị Ngô Thị R.

Về con chung: Anh Nguyễn Văn T được tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Bích Kh, sinh ngày 12/02/2012 đến thành niên hoặc tự lập được; chị Ngô Thị R không phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, về nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Văn T phải chịu án phí hôn nhân, gia đình là 300.000 đồng, được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0005742 ngày 16/5/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh An Giang (đã nộp đủ). Chị Ngô Thị R không phải chịu án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng chị Ngô Thị R được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản sao bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 462/2019/HNGĐ-ST ngày 31/10/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình - ly hôn và nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:462/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về