Bản án 462/2017/HSST ngày 31/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 462/2017/HSST NGÀY 31/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 10 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 448/2017/TLST-HS ngày 13/9/2017, đối với bị cáo:

Nguyễn Việt Th, sinh năm 1994, tại Đồng Nai;

Nơi đăng ký NKTT: 27/4, khu phố 3, phường B, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;

Chỗ ở hiện nay: như trên;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Trình độ học vấn: 07/12;Nghề nghiệp: Phụ hồ;

Con ông: Nguyễn Việt Tr, sinh năm 1969 và bà Lương Thị Bảo T, sinh năm 1973;

Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Chung sống như vợ chồng với Trần Thị Hoài T, sinh năm 1997, có 01 con chung sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị bắt tạm giữ ngày 04/6/2017, chuyển tạm giam ngày 12/6/2017. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa - Có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Nguyễn Việt Th là người nghiện ma túy tổng hợp (hàng đá). Khoảng 12 giờ ngày 03/6/2017 Th đến khu vực gần Ngã năm, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) 11 (mười một) gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 3.000.000 đồng (ba triệu đồng).

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 04/6/2017, Th cất giấu số ma túy trên vào trong bóp và bỏ ở túi quần sau Th đang mặc rồi đi đến tổ 4, khu phố 5, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa thì bị Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 11 (mười một) gói ma túy tổng hợp (hàng đá) ký hiệu M.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia có số thuê bao 0937116385.

Tại Bản kết luận giám định số 204/PC54-GĐMT ngày 08/6/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã xác định: Tinh thể màu trắng chứa trong mẫu M được niêm phong gửi đến giám định có trọng lượng là: 4,5476 gam, có Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, số thứ tự 67, Nghị định 82 ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Tại Bản cáo trạng số 451/CT/VKS-HS ngày 12 tháng 9 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố bị cáo Nguyễn Việt Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Việt Th mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Việt Th đã khai nhận: Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 04/6/2017, tại tổ 4, khu phố 5, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa, Nguyễn Việt Th có hành vi tàng trữ trái phép 4,5476 gam Methamphetamine thì bị Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

Tại Bản kết luận giám định số 204/PC54-GĐMT ngày 08/6/2017 của Phòng Kỹ thuận hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã xác định: Tinh thể màu trắng chứa trong mẫu M được niêm phong gửi đến giám định có trọng lượng là: 4,5476 gam, có Methamphetamine. Tuy nhiên, chưa giám định được hàm lượng chất ma túy có trong trọng lượng nêu trên. Do vậy, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã ban hành Quyết định trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai giám định hàm lượng ma túy để có cơ sở giải quyết vụ án đúng pháp luật.

Ngày 15/10/2017, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai ban hành Bản kết luận giám định số 407/PC54-GĐMT, đã kết luận: Mẫu M được niêm phong gửi đến giám định có hàm lượng Methamphetamine: 42,27%.

Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Việt Th đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 ngày 21 tháng 12 năm 1999, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân thành phố Biên Hòa đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, làm phát sinh tệ nạn xã hội, là nguyên nhân lây lan các căn bệnh hiểm nghèo, nên cần phải có hình phạt nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xét thấy về nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn ăn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 ngày 21 tháng 12 năm 1999.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 ngày 21 tháng 12 năm 1999 quy định: “Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”; Tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”, như vậy tại Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 quy định hình phạt nhẹ hơn, có lợi cho người phạm tội nên Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội; áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia - Imel số 359341/04/718269/1, thuê bao số 0937116385, do không liên quan đến việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.

- Đối với người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) bán ma túy cho bị cáo Th, kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Việt Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Thông tư liên tịch số 17/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999; Thông tư liên tịch số 08/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14 tháng 11 năm 2015 sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC-BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội;

- Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 ngày 21 tháng 12 năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015;

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Việt Th 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/6/2017.

- Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 ngày 21 tháng 12 năm 1999 và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

+ Tịch thu tiêu hủy: Số lượng ma túy còn lại sau giám định là 4,1612 gam (trong gói niêm phong số 204 ngày 09/6/2017 - theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19/9/2017).

+ Trả lại cho bị cáo Nguyễn Việt Th 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia - Imel số 359341/04/718269/1, thuê bao số 0937116385.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19/9/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa).

Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 462/2017/HSST ngày 31/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:462/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về