Bản án 27/2018/HS-ST ngày 08/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 27/2018/HS-ST NGÀY 08/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 03 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 19/2018/TLST-HS ngày 29/01/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2018/QĐXXST-HS ngày 26/02/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Sơn C, sinh năm 1982 tại Hà Nam; Nơi cư trú: Thôn V, xã M, huyện B, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Minh S và bà Nguyễn Thị Q; có vợ là Nguyễn Thị N, sinh năm 1986 và 02 con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án: Ngày 19/01/2015, TAND huyện B,tỉnh Hà Nam xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 31/05/2010, Chủ tịch UBND huyện M, tỉnh Hà Nam quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc 24 tháng, ngày 04/9/2014 và ngày12/9/2014 bị Công an tỉnh H xử phạt hành chính cảnh cáo về hành vi“Cất giữ trái phép chất ma túy”; bị bắt, tạm giữ ngày 21/11/2017, tạm giam ngày 24/11/2017; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Trần Xuân L, sinh năm 1993; trú tại: Thôn Vă, xã M, huyện B, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người làm chứng: Bà Ngô Thị P, sinh năm 1975; trú tại: Tổ 1, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 21/11/2017, Nguyễn Sơn C gọi điện thoại cho bạn nghiện ma túy mới quen tên là M (C không biết rõ tên tuổi, địa chỉ) rủ M góp tiền mua ma túy đem về sử dụng, Mỹ đồng ý và bảo C đến đón tại ngã tư G thuộc phường T, thành phố Phủ Lý. Sau đó, C điều khiển xe môtô Future NEO không đeo biển kiểm soát đi đến gặp M. Khi gặp M, M lấy ra đưa cho C 100.000 đồng, C cầm tiền của M rồi tiếp tục điều khiển xe môtô chở M đi đến khu vực chợ Đ thuộc huyện M, tỉnh N thì dừng lại, C lấy điện thoại ra gọi cho một người đàn ông tên S (không biết rõ tên tuổi, địa chỉ) nói: “Chú cho cháu vay hai trăm, cháu đang ở chợ Đ” (ý C hỏi mua hai trăm nghìn đồng ma túy), người đàn ông đó nói: “Ừ, chờ tý”. Một lát sau, người đàn ông tên S đi tới, C lấy ra 200.000 đồng đưa cho S, S cầm tiền rồi đưa cho M 02 gói ma túy bọc bên ngoài bằng giấy bạc màu vàng. C điều khiển xe môtô chở M quay về khu vực tổ 1, phường T, thành phố Phủ Lý thì M xuống xe, đưa cho C 01 gói giấy bạc màu vàng rồi bỏ đi. C cất gói ma túy M đưa vào túi quần, điều khiển xe môtô đi đến hiệu thuốc số 18 của chị Ngô Thị P ở tổ 1, phường T, thành phố Phủ Lý mua xi lanh tiêm để sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an phường T, thành phố Phủ Lý phát hiện, bắt giữ quả tang. Tại chỗ, C tự giao nộp 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục lấy ra từ trong túi quần dài đang mặc và khai nhận đó là ma túy, cất dấu để sử dụng.

Vật chứng thu giữ của Nguyễn Sơn C gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 xe máy nhãn hiệu Future NEO màu đỏ - đen không đeo biển kiểm soát và 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen.

Tại bản Kết luận giám định số 204/PC54-MT ngày 23/11/2017, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Chất bột màu trắng dạng cục trong mẫu ký hiệu QT01 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, trọng lượng là 0,150gam. Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT 20 Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ”

Bản cáo trạng số 30/KSĐT-MT ngày 29/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố Nguyễn Sơn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Sơn C, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015:

- Xử phạt Nguyễn Sơn C từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Sơn C đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Tronglời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quátrình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quyđịnh của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Sơn C đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp chứng cứ khác của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lờikhai của người làm chứng và các tài liệu khác trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 21/11/2017, tại khu vực tổ 1, phường Thanh T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Sơn C bị lực lượng Công an phường T, thành phố Phủ Lý phát hiện, bắt giữ quả tang khi đang tàng trữ trái phép 0,150 gam Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về việc áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với hành vi phạm tội xảy ra trước thời điểm Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật: Tại khoản1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt tù nhẹ hơn (từ 01 đến 05 năm) so với khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 (từ 02 đến 07 năm) với cùng một tội danh. Việc áp dụng quy định Bộ luật Hình sự năm 2015 để truy tố đối với bị cáo là áp dụng quy định có lợi cho bị cáo về hình phạt theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện ma túy có nhân thân xấu, đã có một tiền án về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích; trước khi bị kết án phạt tù đã bị đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc cai nghiện ma túy và nhiều lần bị xử phạt hành chính về hành vi “Cất giữ trái phép chất ma túy” (đềuđã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính).

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “tái phạm” do phạm tội khi chưa được xóa án tích.

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự pháp luật quy định.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất matúy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện, nhân thân bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đối với người đã góp tiền mua ma túy và người bán trái phép ma túy cho Nguyễn Sơn C, do Cơ quan điều tra không xác định được đặc điểm nhân thân, địa chỉ của những người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

+ Đối với chiếc xe máy Future NEO không đeo biển kiểm soát bị cáo sử dụng ngày 21/11/2017 để đi mua ma túy sử dụng, qua xác minh cơ quan điều tra làm rõ đây là tài sản hợp pháp của anh Trần Xuân L, do anh L không biết bị cáo mượn xe để đi mua ma túy nên nay sẽ trả lại tài sản này cho chủ sở hữu hợp pháp.

+ Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen là tài sản của bị cáo, liên quan đến hành vi phạm tội sẽ tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

+ Đối với toàn bộ số Heroine cùng bao gói sẽ tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Sơn C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/11/2017.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA số sêri 357386/04/354124/4;

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01” số: 204/PC54-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam;

- Trả lại cho anh Trần Xuân L 01(một) xe máy nhãn nhiệu Future NEO màu đỏ - đen  không  đeo  biển  kiểm soát, số  máy:  VLFPD1P52FMH-35A1E6803, sốkhung: RPDWCHAPD5A0E56803;

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 01/02/2018.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Nguyễn Sơn C nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2018/HS-ST ngày 08/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về