TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 46/2021/HS-ST NGÀY 16/06/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 16 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2021/HSST ngày 31 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo:
Nguyễn Đức S, sinh ngày 15 tháng 3 năm 1982; trú tại: Khu 7, xã N, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức T (đã chết) và bà Đinh Thị M, sinh năm 1953; có vợ: Phan Thị Thu H và có 02 con (lớn sinh năm 2006; nhỏ sinh năm 2012); tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, (có mặt).
Người bị hại:
- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1995; trú tại: Thôn 2, xã V, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc (đã chết).
Người đại diện hợp pháp của anh T: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1968; trú tại: Thôn 2, xã V, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, (có mặt).
- Anh Phùng Quyết T, sinh năm 1985; trú tại: Thôn 2, xã V, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).
- Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1990; trú tại: Thôn B, xã B, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Ngô Thị H, sinh năm 1988; trú tại: Khu 9, xã N, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 23/01/2021, Nguyễn Đức S- sinh năm 1982, trú tại khu 7- xã N- huyện Thanh Ba- tỉnh Phú Thọ (là người đã có giấy phép lái xe ô tô hạng FC, số 250167012541 do Sở giao thông vận tải tỉnh Phú Thọ cấp ngày 23/3/2020, có giá trị đến ngày 23/3/2025), điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 19C- 072.04 chở 110 bao xi măng nhãn hiệu Vicem Hải Phòng đi từ huyện Thanh Ba – tỉnh Phú Thọ đến xã T – huyện Vĩnh Tường để giao hàng. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, S điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 19C- 072.04 đi đến đoạn đường QL2C thuộc địa phận thôn P, xã T – huyện Vĩnh Tường, lúc này S điều khiển xe ô tô đi ở phần đường bên phải hướng huyện Vĩnh Tường đi cầu Vĩnh Thịnh. Khi S điều khiển xe ô tô đi qua UBND xã T đến đoạn đường giao nhau giữa đường QL2C với đường liên thôn P, xã T – huyện Vĩnh Tường thì S điều khiển xe ô tô chuyển hướng rẽ phải vào đường liên thôn P, xã T để đi đến trường mầm non xã T. Tuy nhiên, khi điều khiển xe ô tô chuyển hướng S đánh lái quá rộng nên phần đầu xe ô tô không tiến thẳng vào bên trong đường liên thôn được, thấy vậy S điều khiển xe ô tô lùi ra phía đường QL2C để lấy lái chuyển hướng đi vào đường liên thôn. Lúc này, S không chú ý quan sát phía sau, không đảm bảo an toàn nên khi xe ô tô do S điều khiển vừa lùi được khoảng 01m về phía đường QL2C thì phần thùng xe phía sau xe ô tô do S điều khiển đã đâm va vào xe mô tô biển kiểm soát 88L1- 249.80 do anh Nguyễn Văn T (là người có giấy phép lái xe mô tô hạng A1 số 260168002137 do Sở giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Phúc cấp ngày 31/5/2018 còn giá trị sử dụng) điều khiển chở anh Phùng Quyết T và anh Nguyễn Văn D đang di chuyển trên đường quốc lộ 2C theo hướng từ huyện Vĩnh Tường đi cầu Vĩnh Thịnh, đi đúng phần đường, chiều đường quy định gây tai nạn giao thông, làm anh T bị thương được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Quân Y 105 nhưng do vết thương nặng nên anh T đã tử vong; anh D bị thương được đưa đến khám và điều trị tại Trung tâm y tế huyện Vĩnh Tường đến ngày 28/01/2021 ra viện; anh T bị thương được đưa đến khám tại Trung tâm y tế huyện Vĩnh Tường, sau đó được chuyển đến Bệnh viện Quân y 109 điều trị đến ngày 02/02/2021 ra viện. Xe mô tô BKS: 88L1- 249.80 bị hư hỏng nặng, còn xe ô tô BKS: 19C- 072.04 không bị hư hỏng gì.
Sau khi tiếp nhận tin báo nêu trên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường đã phối hợp cùng các cơ quan chức năng tổ chức khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám nghiệm phương tiện và tổ chức các hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã sử dụng máy đo nồng độ cồn trong hơi thở nhãn hiệu ALCOSENSE- PRODIGY II, số ID: 858769, ngày hiệu chỉnh gần nhất là ngày 18/01/2021 để tiến hành kiểm tra nồng độ cồn trong hơi thở của Nguyễn Đức S. Kết quả trong hơi thở của Sinh không có nồng độ cồn.
Kết quả khám nghiệm hiện trường:
Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn thuộc km6+100 Quốc lộ 2C, địa phận thôn P- xã T- huyện Vĩnh Tường- tỉnh Vĩnh Phúc, đoạn đường này thẳng, ở giữa đường có dải phân cách cứng rộng 0,4m, cao 0,85m chia làn đường làm hai chiều xe chạy riêng biệt một chiều đi cầu Vĩnh Thịnh, một chiều đi thành phố Vĩnh Yên, mỗi chiều xe chạy mặt đường được đổ nhựa áp phan bằng phẳng rộng 8,15m, hai bên có lề đường rộng 0,7m. Tại vị trí xảy ra tai nạn tiếp giáp với mép đường bên phải theo chiều từ thành phố Vĩnh Yên đi cầu Vĩnh Thịnh có lối mở rộng 10,4m đi thôn P và UBND xã T, lối đi xuống thôn P và UBND xã T này có chiều dốc xuống, trên mặt đường của lối mở này theo chiều đi xuống tại phần bên trái đường bám dính nhiều cát, bụi đất màu trắng xám mặt đường đi thôn P này được đổ bê tông rộng 5,15m. Trước khi đến vị trí giao nhau tại lề đường bên phải của Quốc lộ 2C theo chiều đi cầu Vĩnh Thịnh có biển báo hiệu W207a (giao nhau với đường không ưu tiên) tại lề đường bên phải theo chiều đi lên Quốc lộ 2C của đường thôn P có biển báo hiệu W208 (giao nhau với đường ưu tiên). Chọn chiều khám nghiệm theo chiều từ thành phố Vĩnh Yên đi Cầu Vĩnh Thịnh. Chọn mép đường bên phải theo chiều khám nghiệm làm mép đường chuẩn. Chọn cột mốc H1/6 nằm tại mép đường bên trái làm điểm mốc. Xe ô tô biển kiểm soát 19C- 072.04 đỗ tại nơi đường giao nhau giữa Quốc lộ 2C với đường liên thôn P- xã T- huyện Vĩnh Tường trong trạng thái bật đèn cảnh báo nguy hiểm ở đầu và đuôi xe ký hiệu là (1), phần đầu xe hướng đi thôn P- xã T, phần sau xe hướng ra tim đường Quốc lộ 2C, đo trục sau bên phải của (1) đến điểm mốc là 19,9m, đo trục trước bên phải của (1) đến mép đường chuẩn là 06m, đo trục sau bên phải của (1) đến mép đường chuẩn là 0,66m, đo trục sau bên trái của (1) đến mép đường chuẩn là 0,25m, đo trục trước bên trái của (1) đến mép đường chuẩn là 5,3m, hai bánh trước của xe ô tô trong tư thế chếch sang bên trái xe, trục bên trái cách mép ao 1,1m. Vết in lốp kích thước 1,9m x 0,2m ký hiệu là (2), đo đầu của (2) đến mép đường chuẩn là 6,84m, cuối của (2) nằm tại mặt lăn lốp bánh xe trục trước bên trái và cách mép đường chuẩn 5,1m, đo đầu (2) đến trục trước bên trái của(1) là 1,75m, đo đầu (2) đến điểm mốc là 27m. Vết in lốp kích thước 2,7m x 0,52m ký hiệu là (3), đo đầu của (3) đến mép đường chuẩn là 2,75m, cuối của (3) cách mép đường chuẩn là 0,09m, đo đầu (3) đến đầu của (2) là 4,25m, đo đầu (3) đến trục sau bên trái của (1) là 2,6m. Vết máu kích thước 1,2m x 0,66m ký hiệu là (4), đo tâm của (4) đến mép đường chuẩn là 2,8m, đo tâm của (4) đến trục sau bên trái của (1) là 3,1m. Đám vết cày kích thước 9,5m x 0,62m có chiều hướng từ thành phố Vĩnh Yên đi cầu Vĩnh Thịnh ký hiệu là (6), đo đầu (6) đến mép đường chuẩn là 1,45m, đo cuối của (6) đến mép đường chuẩn là 1,72m, đo đầu của (6) đến trục sau bên trái của (1) là 2,8m, đo đầu (6) đến tâm (4) là 2,8m, cuối của (6) nằm tại đầu bàn để chân người lái bên trái xe mô tô 88L1- 249.80. Chiếc giày kích thước 0,27m x 0,1m nằm tại mặt đường ký hiệu là (5), đo điểm gần nhất (mũi giày) đến mép đường chuẩn là 2,9m, đo điểm xa nhất (gót giày) đến mép đường chuẩn là 3,18m, đo điểm gần nhất (mũi giày) đến tâm (4) là 0,75m. Xe mô tô 88L1- 249.80 nằm đổ nghiêng bên trái tại mặt đường ký hiệu là (7), phần đầu xe hướng vào tim đường, phần sau xe hướng ra mép đường chuẩn, đo trục trước của (7) đến mép đường chuẩn là 2,5m, đo trục sau của (7) đến mép đường chuẩn là 1,27m, đo trục sau của (7) đến trục sau bên trái của (1) là 11,68m. Biển số xe mô tô 88L1- 249.80 nằm tại mặt đường ký hiệu là (8), (8) có kích thước 0,23m x 0,17m, đo điểm gần nhất của (8) đến mép đường chuẩn là 0,39m, đo điểm xa nhất cách mép đường chuẩn là 0,63m, đo tâm của (8) đến trục sau của (7) là 0,9m. Dấu vết lốp (2) và lốp (3) có chiều hướng ngược chiều chuyển động tiến của xe ô tô biển kiểm soát 19C- 072.04 hướng lên mặt đường Quốc lộ 2C. Trên mặt đường khu vực hiện trường có mảnh nhựa vỡ, gương vỡ kích thước 11,9m x 3,07m nằm rải rác tại gầm xe ô tô (1) đến vị trí xe mô tô (7) đổ. Quá trình khám nghiệm hiện trường đã tạm giữ: 01 xe ô tô biển kiểm soát 19C- 072.04, trên xe có 110 bao xi măng nhãn hiệu Vicem Hải Phòng PC30, trọng lượng mỗi bao là 50kg, tổng trọng lượng hàng hóa là 5.500kg; 01 xe mô tô biển kiểm soát 88L1-249.80; 01 chiếc biển kiểm soát 88L1- 249.80; một số mảnh nhựa vỡ, gương vỡ hình thù khác nhau; mẫu máu tại vị trí số (4); 01 chiếc giày màu đen.
Kết quả khám nghiệm phương tiện:
- Xe ô tô biển kiểm soát 19C- 072.04 loại xe cẩu tự hành màu xanh, nhãn hiệu THACO, tại thời điểm khám phương tiện có chứa các bao xi măng, cần cẩu tự hành gập về phía trước đầu xe, sau khi va chạm để lại các dấu vết cụ thể như sau: Mặt ngoài phía sau của thanh sắt khung phía sau thùng xe có vết trượt sạch bụi chiều hướng từ phải qua trái, kích thước 104cm x 08cm, vị trí đầu vết cách mép bên phải phía sau của thành thùng xe 28cm, vị trí thấp nhất nằm tại mép phía dưới của khung ngang phía sau xe. Mặt ngoài phía sau và mặt bên phải của ốp phía sau bên phải khung sắt si bên phải gầm xe có vết trượt sạch bụi theo chiều từ phải sang trái, kích thước 15cm x 13,5cm, vị trí thấp nhất nằm tại mép phía dưới của ốp kim loại. Mặt ngoài bên phải của ốp phía sau bên trái khung sắt si bên trái gầm xe có vết trượt sạch bụi theo chiều từ phải sang trái kích thước 10cm x 2,5cm, vị trí thấp nhất cách cạnh dưới của ốp là 02cm. Tại góc dưới phía sau của khung sắt si bên trái gầm xe có mắc kẹt mảng nhựa màu đen kích thước 21cm x 10cm và bám dính chất màu nâu đỏ nghi là máu theo chiều từ phải sang trái kích thước 08cm x 15cm, vị trí thấp nhất nằm tại mép phía dưới của khung sắt si. Tại thời điểm khám nghiệm, mặt lăn của lốp bánh trước bên trái và lốp kép trục bánh sau bên trái bám dính chất bột, cát màu trắng xám. Hai thanh sắt si gầm xe có hình chữ U, có độ dày 0,6cm, rộng 23cm, tại góc phía sau dưới bên trái khung sắt si bên trái có gắn đoạn kim loại kích thước 10cm x 02cm bằng hai ốc vít, tại đầu phía sau của đoạn kim loại này bám dính chất màu nâu đỏ nghi là máu theo chiều từ phải sang trái kích thước 07cm x 03cm. Kiểm tra trên thùng xe đang chở 110 bao xi măng nhãn hiệu Vicem Hải Phòng PC30, trọng lượng mỗi bao là 50kg. Quá trình khám phương tiện đã thu giữ mẫu chất màu nâu đỏ nghi là máu tại góc dưới phía sau của khung sắt si bên trái xe ô tô.
- Xe mô tô biển kiểm soát 88L1- 249.80; Số máy: 5C6H062453; Số khung:
5C6H0EY062459; Số loại: SIRIUS, Nhãn hiệu: YAMAHA; Màu sơn: Đen đỏ; Đăng ký lần đầu: 30/7/2014; Dung tích xi lanh: 110cm3, đã cũ qua sử dụng, sau khi va chạm để lại các dấu vết mới cụ thể như sau: Gương chiếu hậu bên trái bị vỡ bung rời khỏi xe phần gương và ốp gương. Ốp nhựa bên trên phía trước đầu xe bị vỡ bung rời khỏi xe. Cụm đèn chiếu sáng phía trước đầu xe bị bung chốt hãm khỏi vị trí ban đầu, chỉ còn kết nối với xe bằng sợi dây điện. Mặt phía trước và mặt bên trên của tay phanh bên phải bị cày lõm, xước kim loại theo chiều từ trước về sau, kích thước 05cm x 01cm, vị trí đầu vết cách mặt ngoài cùng bên phải của tay phanh 13cm, vị trí đầu vết cách mặt đất 94cm. Tay lái bên phải bị đẩy cong theo chiều từ trước về sau một góc 100, tại mặt trước bọc cao su đầu tay lái và mặt trước của ốp công tắc đèn chiếu sáng có vết trượt xước theo chiều từ trước về sau, từ trái qua phải, kích thước 05cm x 3,5cm, vị trí cuối vết cách mép bên phải của tay lái này 09cm. Mặt nhựa phía trên của hộp đồng hồ bị vỡ, kích thước 12cm x 6,5cm, vị trí gần nhất nằm tại mép phía trên của ốp nhựa. Ốp nhựa xung quanh hộp đồng hồ bị vỡ phần bên phải, kích thước 14cm x 06cm, kéo dài từ hộp đồng hồ đến cạnh bên phải. Mặt trước của tay lái bên trái có vết chà sát, rách cao su theo chiều từ trước về sau, từ phải qua trái, kích thước 04cm x 04cm, cuối vết nằm tại cạnh bên trái của tay lái này. Bàn để chân người lái bên trái bị đẩy cong theo chiều từ trước về sau, từ dưới lên trên, lệch khỏi vị trí ban đầu một góc 450, mặt phía trước của bọc cao su của bàn để chân này bị rách theo chiều từ trước về sau làm hở kim loại, kích thước 04cm x 03cm, trên bề mặt bám dính chất bột màu trắng. Tại mặt phía trước bánh trước của cung chắn bùn có vết trượt xước, mài mòn nhựa, kích thước 06cm x 16cm, theo chiều từ trước về sau, đầu vết cách đỉnh chắn bùn 02cm. Biển số xe bị bung rời khỏi xe.
Kết quả khám nghiệm tử thi:
Ngày 23/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường ra Quyết định trưng cầu giám định số 80, trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc giám định để xác định nguyên nhân tử vong của anh Nguyễn Văn T.
Kết quả khám nghiệm tử thi xác định: Phẫu thuật vùng đầu thấy tổ chức cân cơ dưới da vùng đỉnh đầu tương ứng vết thương mô tả ngoài dính nhiều dị vật đất cát, xương hộp sọ vùng này dập vỡ sập xuống. Tiến hành phẫu thuật vùng ngực thấy tổ chức cân cơ dưới da dập nát, gãy đứt toàn bộ các xương sườn 6, 7, 8, 9 bên phải và các xương sườn 5, 6, 7 bên trái, dập nát toàn bộ hai phổi, rách toàn bộ màng ngoài tim, đứt toàn bộ mặt trước cơ hoành, vỡ gan phải. Quá trình khám nghiệm tử thi đã thu khoảng 15ml máu trong cơ thể tử thi Nguyễn Văn T để phục vụ giám định, 01 bộ quần áo mặc bên ngoài tử thi được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật.
Ngày 26/01/2021, Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc có bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 17/TT, kết luận:
* Dấu hiệu qua giám định: Nhiều vết xây xát da, ít vết thương rách da cơ. Chấn thương sọ não: Dập vỡ xương hộp sọ. Chấn thương cột sống cổ: Gãy rời kín các đốt sống cổ 2,3,1. Chấn thương ngực: Gãy nhiều xương sườn trái, phải, dập nát toàn bộ hai phổi, rách toàn bộ màng ngoài tim, đứt toàn bộ mặt trước cơ hoành, vỡ gan phải.
* Nguyên nhân chết: Sốc đa chấn thương không hồi phục.
* Cơ chế hình thành vết thương: Các thương tích đã mô tả trên do vật tày có diện gây nên.
Ngày 25/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường đã trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành giám định nồng độ cồn, chất ma túy đối với mẫu máu thu của tử thi Nguyễn Văn T. Ngày 30/01; 04/2/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc có bản kết luận giám định số 336; 396/KLGĐ, kết luận:
- Mẫu chất lỏng màu nâu đỏ ghi là mẫu máu thu của tử thi Nguyễn Văn T- SN: 1995, trú tại thôn 2, xã V, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc gửi đến giám định có cồn (Ethanol), nồng độ cồn (Ethanol) trong máu là 82,155mg/100ml.
- Không tìm thấy chất ma túy thường gặp (Morphine, Heroine, Methamphetamine, MDMA, Delta- 9- tetrahydrocanabinol, Ketamine) trong mẫu chất lỏng màu nâu đỏ ghi là mẫu máu thu của tử thi Nguyễn Văn T- sinh năm 1995, trú tại thôn 2, xã V, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc gửi đến giám định.
Ngày 25/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 81, trưng cầu Viện pháp y Quân Đội giám định ADN đối với mẫu chất màu nâu đỏ thu tại vị trí số (4) tại hiện trường và mẫu chất màu nâu đỏ thu tại vị trí đuôi xe ô tô biển kiểm soát 19C- 072.04 với mẫu máu thu của tử thi Nguyễn Văn T. Ngày 28/01/2021, Viện pháp y Quân Đội có bản kết luận giám định ADN số: HT37.21/PY-XN, kết luận: Mẫu chất màu nâu đỏ thu tại vị trí đuôi xe ô tô biển kiểm soát 19C- 072.04 (ký hiệu A1) và ở vị trí số (4) tại hiện trường (ký hiệu A2) có sinh phẩm người, có ADN trùng khớp với ADN từ mẫu máu của Nguyễn Văn T (ký hiệu M1).
Ngày 23/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường đã thu giữ khoảng 200ml nước tiểu của Nguyễn Đức S. Ngày 25/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường đã trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành giám định chất ma túy trong mẫu nước tiểu thu của Nguyễn Đức S nêu trên. Ngày 01/02/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc có bản kết luận giám định số 342/KLGĐ, kết luận: Không tìm thấy chất ma túy thường gặp (Morphine, Heroine, Methamphetamine, MDMA, Delta - 9 - tetrahydrocanabinol, Ketamine) trong mẫu chất lỏng màu vàng ghi là mẫu nước tiểu thu của Nguyễn Đức S, sinh năm: 1982, trú tại Khu 7, xã N, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ gửi đến giám định.
Ngày 23/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường tiến hành thu giữ 01 đoạn video trích xuất từ camera an ninh của gia đình chị Nguyễn Thanh Q- sinh năm 1995, trú tại thôn P- xã T- huyện Vĩnh Tường. Ngày 25/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường đã trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành giám định kỹ thuật số và điện tử đối với đoạn video nêu trên. Ngày 01/02/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh phúc có bản kết luận giám định số 390/KLGĐ, kết luận: Chụp được 08 (tám) ảnh đặc điểm, hành động của người, phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông xuất hiện trong đoạn video clip gửi giám định trong khoảng thời gian 14 giờ 51 phút 00 giây đến 14 giờ 52 phút 32 giây ngày 23/01/2021 (theo thời gian hiển thị trên màn hình). Ảnh chụp và thuyết minh được in vào Bản ảnh giám định. 01 (một) tệp tin video gửi giám định được sao lưu vào 01 (một) đĩa DVD. Kèm theo kết luận giám định: 01 đĩa DVD và 01 Bản ảnh có chữ ký của giám định viên và dấu của phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Vĩnh Phúc.
Bản ảnh giám định được thuyết minh như sau:
Ảnh 1,2: Xuất hiện 01 xe ô tô tải có phần thùng và đầu xe màu xanh đang di chuyển rẽ phải sau đó dừng lại và hướng đuôi xe ra phía ngoài phần đường di chuyển ban đầu.
Ảnh 3: Xe tải trên di chuyển lùi.
Ảnh 4,5: Xe tải tiếp tục di chuyển lùi, xuất hiện 01 phương tiện không rõ đặc điểm và người ngồi trên phương tiện di chuyển trên làn đường ban đầu xe tải di chuyển sau đó va chạm với phần đuôi xe của xe tải và ngã ra đường.
Ảnh 6,7,8: Xuất hiện 01 người mặc áo sáng màu đi ra từ ghế bên trái xe tải và đi về phía đuôi xe tải.
Sau khi được Cơ quan điều tra thông báo nội dung kết luận kèm theo bản ảnh giám định nêu trên thì Nguyễn Đức S và anh Phùng Quyết T, anh Nguyễn Văn D xác định chiếc xe ô tô và xe mô tô liên quan đến vụ tai nạn giao thông trong bản ảnh giám định là xe ô tô do S điều khiển và xe mô tô do T điều khiển chở anh T và anh D.
Ngày 26/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường ra các Yêu cầu định giá tài sản số 56 yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự huyện Vĩnh Tường định giá xác định thiệt hại của xe mô tô biển kiểm soát 88L1-249.80 sau khi tai nạn xảy ra. Ngày 04/02/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Vĩnh Tường có các bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTTHS kết luận: Tổng giá trị thiệt hại tài sản là 1.680.000đ (Một triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng).
Sau khi được Cơ quan điều tra thông báo các kết luận giám định, định giá tài sản nêu trên, Nguyễn Đức S và đại diện gia đình tử thi Nguyễn Văn T đều đồng ý và không có ý kiến thắc mắc gì.
Ngày 02/02/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường đã ra quyết định trưng cầu số 110, 111 trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành giám định pháp y về thương tích đối với anh Nguyễn Văn D và anh Phùng Quyết T. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra anh D và anh T đều cương quyết từ chối giám định thương tích và không chấp hành Quyết định dẫn giải đi giám định thương tích của Cơ quan điều tra. Do đó, Cơ quan điều tra không đủ cơ sở xác định tổn hại sức khỏe của anh D và anh T trong vụ tai nạn giao thông nêu trên.
Tại Cáo trạng số 31/CT-VKSVT ngày 28/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức S về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng đối với bị cáo S; sau khi đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức S phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức S từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thử thách từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm. Hình phạt bổ sung: Cấm bị cáo S hành nghề lái xe từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng. Ngoài ra còn đề nghị trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Vĩnh Tường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2]. Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường, bị cáo khai nhận:
Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 23/01/2021, bị cáo điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 19C- 072.04 lùi xe từ đường liên thôn P, xã T – huyện Vĩnh Tường ra đoạn đường QL2C thuộc địa phận thôn P, xã T. Do khi lùi xe ô tô, bị cáo không chú ý quan sát phía sau, không đảm bảo an toàn nên khi xe ô tô do bị cáo điều khiển vừa lùi được khoảng 01m về phía đường QL2C thì phần thùng xe phía sau xe ô tô do bị cáo điều khiển đã đâm va vào xe mô tô biển kiểm soát 88L1- 249.80 do anh Nguyễn Văn T điều khiển chở anh Phùng Quyết T và anh Nguyễn Văn D đang di chuyển trên đường quốc lộ 2C theo hướng từ huyện Vĩnh Tường đi cầu Vĩnh Thịnh, đi đúng phần đường, chiều đường quy định gây tai nạn giao thông dẫn đến hậu quả làm anh T bị tử vong; anh T, anh D bị thương và làm thiệt hại tài sản của người khác có giá trị 1.680.000đ.
Hành vi lùi xe ô tô không chú ý quan sát, không đảm bảo an toàn gây tai nạn giao thông dẫn đến hậu quả nghiêm trọng làm anh T tử vong của Nguyễn Đức S đã vi phạm khoản 1 Điều 16 Luật giao thông đường bộ năm 2008.
Khoản 1 Điều 16 Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định:
“1. Khi lùi xe, người điều khiển phải quan sát phía sau, có tín hiệu cần thiết và chỉ khi nào thấy không nguy hiểm mới được lùi”.
[3]. Xét lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như lời khai của bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng tại Cơ quan điều tra, Kết luận giám định của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Nguyễn Đức S đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.
Điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”:
a) Làm chết người;” [4]. Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại đến tính mạng của người khác, gây bất bình trong quần chúng nhân dân khi tham gia giao thông, do đó cần phải xử lý nghiêm bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5]. Xét nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại, người bị hại cũng có lỗi một phần. Người bị hại và người đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bản thân có nơi cư trú ổn định rõ ràng. Do vậy có thể áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự, không cần thiết bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại Trại giam mà cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách gấp đôi cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Nghề nghiệp chính của bị cáo là lái xe nên phải cấm bị cáo hành nghề lái xe ô tô theo quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật hình sự một thời gian nhất định như đề nghị của Viện kiển sát là phù hợp.
[7]. Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và các vấn đề khác:
- Quá trình điều tra, bị cáo S đã tự nguyện bồi thường tiền mai táng phí và tổn hại tinh thần cho gia đình anh Nguyễn Văn T số tiền 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng); bồi thường tiền chi phí viện phí, tổn hại sức khỏe và tiền sửa chữa hư hỏng của chiếc xe mô tô 88L1- 249.80 cho anh Phùng Quyết T số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng). Đại diện gia đình anh Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn D (Bố đẻ anh T) và anh T đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu đề nghị gì khác. Riêng anh Nguyễn Văn D và Công ty TNHH vật liệu xây dựng H xin tự khắc phục hậu quả, không yêu cầu đề nghị gì. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
- Trong vụ tai nạn giao thông này, Nguyễn Văn T cũng có hành vi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 88L1- 249.80 tham gia giao thông khi trong máu có nồng độ (Ethanol) là 82,155mg/100ml, chở quá số người quy định (03 người) tham gia giao thông đi trên đường ưu tiên nhưng khi đến khu vực đường quốc lộ 2C giao nhau đường liên thôn P – xã T được cắm biển cảnh báo nguy hiểm số W207a (giao nhau với đường không ưu tiên) không chú ý quan sát, không giảm tốc độ để đảm bảo an toàn gây tai nạn giao thông làm chính bản thân mình bị tử vong và làm người khác bị thương. Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn T đã vi phạm khoản 8 Điều 8, khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 30 Luật giao thông đường bộ năm 2008. Tuy nhiên, do anh T đã tử vong nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.
- Đối với chiếc xe ô tô biển kiểm soát 19C- 072.04 và 110 bao xi măng nhãn hiệu Vicem Hải Phòng PC30, tổng trọng lượng là 5.500kg. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của Công ty TNHH vật liệu xây dựng H, địa chỉ: khu 9, xã N – huyện Thanh Ba – tỉnh Phú Thọ (toàn bộ giấy tờ hợp pháp đứng tên Công ty). Công ty ký hợp đồng lao động thuê Nguyễn Đức S lái xe ô tô biển kiểm soát 19C- 072.04 của Công ty. Do vậy, Cơ quan điều tra đã trả lại cho Công ty TNHH vật liệu xây dựng H chiếc xe ô tô và 110 bao xi măng nêu trên. Nhận lại tài sản, chị Ngô Thị H- sinh năm 1988- Chủ tịch HĐTV, Giám đốc Công ty TNHH vật liệu xây dựng H không có yêu cầu, đề nghị gì và xin tự khắc phục hậu quả, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Đối với chiếc xe mô tô BKS: 88L1 -249.80, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Phùng Quyết T. Ngày 23/01/2021, T đến nhà anh T rủ anh T và D đi sang thị xã Sơn Tây để ăn cưới. Sau đó, anh T nói với anh T để anh T điều khiển xe mô tô BKS: 88L1 -249.80 của anh T chở anh T và anh D vì anh T biết đường đi nên anh T đã giao chiếc xe mô tô này cho Nguyễn Văn T điều khiển. Tuy nhiên anh T không biết lúc đó T đã sử dụng rượu, bia; anh T thấy T vẫn tỉnh táo, bình thường. Do đó, hành vi nêu trên của T không cấu thành tội Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 264 Bộ luật hình sự nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với anh T, đồng thời Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh T 01 chiếc xe mô tô đăng ký biển kiểm soát 88L1- 249.80 và 01 biển số vuông 88L1- 249.80. Nhận lại tài sản anh T không yêu cầu đề nghị gì, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Đối với một số mảnh nhựa vỡ, gương vỡ đa hình thù; 01 chiếc giày màu đen thu giữ tại hiện trường; 01 bộ quần áo thu giữ trên người tử thi Nguyễn Văn T và toàn bộ mẫu vật do cơ quan giám định hoàn lại sau giám định không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.
- Đối với 01 giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 250167012541 do sở Giao thông vận tải tỉnh Phú Thọ cấp ngày 23/3/2020 mang tên Nguyễn Đức S, cần trả lại cho S nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án (được chuyển theo hồ sơ vụ án).
[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 5 Điều 260; điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65; Điều 41 của Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức S phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức S: 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Đức S cho UBND xã N, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.
Cấm bị cáo S hành nghề lái xe ô tô trong thời hạn 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: Một số mảnh nhựa vỡ, gương vỡ đa hình thù; 01 chiếc giày màu đen thu giữ tại hiện trường; 01 bộ quần áo thu giữ trên người tử thi Nguyễn Văn T và toàn bộ mẫu vật do cơ quan giám định hoàn lại sau giám định.
- Trả lại cho bị cáo Sinh 01 giấy phép lái xe ô tô hạng FC số 250167012541 do sở Giao thông vận tải tỉnh Phú Thọ cấp ngày 23/3/2020 mang tên Nguyễn Đức S, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Các vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Vĩnh Tường và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường.
5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Đức S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người đại diện hợp pháp của người bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án để đề nghị xét xử phúc thẩm. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án 46/2021/HS-ST ngày 16/06/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 46/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về