Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 24/05/2021 về ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 46/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 24 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 451/2020/TLST-HNGĐ ngày 31/12/2020 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1981.

Địa chỉ: Thôn 10, xã T, huyện L, tỉnh L.

Bị đơn: Anh Vũ Xuân T, sinh năm 1979.

Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh L.

(Chị T có mặt, anh T vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày:

Chị và anh Vũ Xuân T về chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2000 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới hỏi theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh Đồng năm 2016. Quá trình chung sống, vợ chồng xẩy ra nhiều mâu thuẫn; vợ chồng không hòa hợp, hạnh phúc. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh T chơi bời cờ bạc, không lo làm ăn chăm sóc gia đình, thường xuyên rượu chè say xỉn về nhà chửi bới đánh đập vợ con, chị đã nhiều lần tạo cơ hội tha thứ để anh T sửa chữa nhưng tình cảm vợ chồng không được cải thiện. Năm 2018, chị đã chuyển đến Thôn 10, xã T, huyện L, tỉnh L để làm ăn sinh sống ly thân với anh Vũ Xuân T cho đến nay. Vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc, liên lạc với nhau nữa. Nay, chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị và anh T được ly hôn.

Về con chung: Chị T xác định vợ chồng chị có 03 con chung tên Vũ Quách Hào, sinh ngày 24/09/2000; Vũ Thị Như Ý, sinh ngày 09/03/2002 và Vũ Thành L, sinh ngày 28/4/2006. Khi ly hôn, các con chung Vũ Quách Hào, Vũ Thị Như Ý đã trưởng thành, phát triển bình thường nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với con chung Vũ Thành L, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Vũ Thành L theo nguyện vọng của con. Chị không yêu cầu anh Vũ Xuân T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị T xác định vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị T xác định vợ chồng không có nợ chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bản tự khai bị đơn anh Vũ Xuân T trình bày:

Anh và chị T xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh Đồng năm 2016. Quá trình chung sống, vợ chồng anh có xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau; nguyên nhân là do vợ chồng anh không thống nhất về nơi làm ăn, sinh sống nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng. Anh đã sống ly thân với chị T được 03 năm, không ai còn quan tâm, chăm sóc nhau nữa. Nay chị T xin ly hôn thì anh không đồng ý ly hôn, anh muốn hàn gắn tình cảm, đoàn tụ với chị T vì hiện nay các con đã lớn anh không muốn các con mất thể diện và không muốn chia đất đai, tài sản.

Về con chung: Anh Vũ Xuân T xác định vợ chồng anh có 03 con chung là Vũ Quách Hào, sinh ngày 24/09/2000; Vũ Thị Như Ý, sinh ngày 09/03/2002 đã trưởng thành phát triển bình thường, chỉ có con chung Vũ Thành L, sinh ngày 28/4/2006 chưa thành niên. Do không đồng ý ly hôn nên anh không đề nghị giải quyết.

Về tài sản chung: Anh xác định vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh Vũ Xuân T xác định vợ chồng có khoản nợ 300.000.000đ tại Ngân hàng Sacombank, phòng giao dịch huyện Lâm Hà. Khoản nợ này anh tự giải quyết.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không thành do vắng mặt bị đơn anh Vũ Xuân T.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn anh Vũ Xuân T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị T, xử cho chị Trần Thị T và anh Vũ Xuân T được ly hôn; về con chung: giao con chung tên Vũ Thành L, sinh ngày 28/4/2006 cho chị Trần Thị T tiếp tục nuôi dưỡng theo nguyện vong của con chung. Anh Vũ Xuân T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

Về án phí: Buộc chị Trần Thị T phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận cũng như ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn anh Vũ Xuân T vắng mặt và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Do vậy, căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị T và anh Vũ Xuân T xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh Đồng năm 2016. Chị T cho rằng: mâu thuẫn vợ chồng là do anh T chơi bời cờ bạc, không lo làm ăn, chăm sóc gia đình, thường xuyên rượu chè say xỉn về nhà chửi bới đánh đập vợ con, chị đã nhiều lần tạo cơ hội tha thứ để anh T sửa chữa nhưng tình cảm vợ chồng không cải thiện được. Năm 2018, chị đã chuyển đến Thôn 10, xã T, huyện L, tỉnh L để làm ăn và sống ly thân với anh T cho đến nay, không ai còn quan tâm liên lạc với nhau nữa. Bản thân anh T cũng thừa nhận: trong thời gian vợ chồng chung sống với nhau có xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau; nguyên nhân là do vợ chồng không thống nhất về nơi làm ăn, sinh sống nên mâu thuẫn căng thẳng, anh và chị T đã sống ly thân với nhau được 03 năm, không ai còn quan tâm đến nhau nữa.

Xét thấy, quá trình chung sống giữa chị Trần Thị T và anh T có xảy ra cãi vã xúc phạm nhau là có xẩy ra trên thực tế nguyên nhân do vợ chồng chị T anh T không thống nhất được về nơi làm ăn, sinh sống, quá trình chung sống luôn xẩy ra mâu thuẫn cãi vã nhau, vợ chồng không có tiếng nói chung anh, chị đã sống ly thân với nhau từ năm 2018, không ai còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị T xin ly hôn thì anh T không đồng ý ly hôn, anh muốn hàn gắn tình cảm, đoàn tụ với chị T vì hiện nay các con đã lớn anh không muốn các con mất thể diện và không muốn chia đất đai, tài sản.

Tại phiên tòa, chị Trần Thị T có mặt xác định: trong thời gian vợ chồng chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn, chị đã nhiều lần tạo cơ hội để anh T sửa chữa để vợ chồng hiểu nhau hơn nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện. Nay, chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị và anh Vũ Xuân T được ly hôn. Quá trình xác minh các tổ chức, đoàn thể ở địa phương thì thấy rằng: vợ chồng chị T, anh T phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã nhau, đã sống ly thân nhau một thời gian dài. Mặc dù, anh T không đồng ý ly hôn với chị T mà muốn hàn gắn tình cảm với chị T nhưng trong quá trình giải quyết vụ án anh T không có biện pháp cải thiện quan hệ tình cảm vợ chồng. Lý do anh T không đồng ý ly hôn là vì các con đã lớn, anh sợ mất thể diện và không muốn chia đất đai tài sản là không chính đáng.

Do vậy, nếu cứ kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện tại cũng không mang lại hạnh phúc cho các bên đương sự.

Vì vậy, căn cứ Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Trần Thị T, giải quyết cho chị Trần Thị T và anh Vũ Xuân T được ly hôn là phù hợp.

[3] Về con chung: Chị Trần Thị T và anh T cùng xác định vợ chồng có 03 con chung tên là Vũ Quách Hào, sinh ngày 24/09/2000; Vũ Thị Như Ý, sinh ngày 09/03/2002 và Vũ Thành L, sinh ngày 28/4/2006 . Hiện cháu Hào và cháu Ý đều đã trưởng thành, phát triển bình thường nên cả anh T và chị T xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

Đối với con chung Vũ Thành L, sinh ngày 28/4/2006 đến nay chưa thành niên nên chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con.

Xét thấy, từ khi vợ chồng sông ly thân, cháu Long vẫn do chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Hơn nữa, cháu Long cũng có nguyện vọng ở với mẹ. Mặt khác, hiện nay anh T không có nơi cư trú ổn định. Do vậy, để đảm bảo điều kiện chăm sóc, ổn định tâm sinh lý của trẻ để trẻ có điều kiện học tập và phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần cần căn cứ Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình giao con chung Vũ Thành L, sinh ngày 28/4/2006 cho chị T tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng là phù hợp. Việc cấp dưỡng nuôi con chung, chị T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

[4] Về tài sản chung: Chị Trần Thị T, anh Vũ Xuân T xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

Về nợ chung: Chị Trần Thị T xác định, quá trình chung sống anh, chị không có nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, anh T xác định vợ chồng có khoản nợ 300.000.000đ tại Ngân hàng Sacombank, phòng giao dịch huyện Lâm Hà.

Tuy nhiên, qua xác minh tại Ngân hàng Sacombank, phòng giao dịch huyện Lâm Hà thì vào ngày 25/11/2020 Ngân hàng có ký hợp đồng tín dụng với anh Vũ Quách Hào (con trai chị T) về việc cho anh Hào vay số tiền 300.000.000đ. Để đảm bảo cho khoản vay này, chị Trần Thị T có dùng tài sản riêng là quyền sử dụng đất số BV 053886 do Ủy ban nhân dân huyện Lâm Hà cấp ngày 29/12/2014 để thế chấp cho ngân hàng. Ngân hàng xác định khoản vay này không phải là khoản nợ chung của vợ chồng anh Vũ Xuân T và chị Trần Thị T, ngân hàng không liên quan gì và ngân hàng cũng không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

[5] Về án phí: Buộc chị Trần Thị T phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 203; điểm khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 và Điều 266 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử :

1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Trần Thị T, xử cho chị Trần Thị T và anh Vũ Xuân T được ly hôn.

2. Về con chung: giao con chung Vũ Thành L, sinh ngày 28/4/2006 cho chị Trần Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con chung; anh Vũ Xuân T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

4. Về án phí: Buộc chị Trần Thị T phải chịu 300.000đ tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) chị Trần Thị T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0015008 ngày 31/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Chị Trần Thị T đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Báo cho đương sự có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (24/5/2021). Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 24/05/2021 về ly hôn 

Số hiệu:46/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về