Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 20/04/2021 về ly hôn giữa anh N và chị Th

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 46/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ LY HÔN GIỮA ANH N VÀ CHỊ TH 

Ngày 20/4/2021, tại trụ sở TAND tỉnh Bắc Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 161/2020/TLST-HNGĐ ngày 21/12/2020, về việc: Tranh chấp Hôn nhân và Gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/3/2021 vàQuyết định hoãn phiên tòa số 25/QĐST-HNGĐ ngày 30/3/2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Vũ Trí N, sinh năm 1981;

Địa chỉ: Thôn Ph, xã T, huyện LN, tỉnh Bắc Giang, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Chị Lê Thị Th, sinh năm 1991;

Địa chỉ: Thôn Ph, xã T, huyện LN, tỉnh Bắc Giang. Hiện chị Th đang đi lao động tại Đài Loan, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 20/11/2020và các lời khai nguyên đơn anh Vũ Trí N trình bày:

Ngày 22/3/2010 anh và chị Lê Thị Thcó đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện LN trên cơ sở tự nguyện hợp pháp. Cưới xong chị Th có về gia đình nhà anh làm dâu. Đến năm 2017 chị Th đi lao động tại Đài Loan. Vợ chồng sống ly thân và chấm dứt mọi quan hệ từ đó cho đến nay. Hiện chị Th cũng chưa về nước. Anh cũng không biết địa chỉ cụ thể của chị Th hiện đang đi lao động tại Đài Loan vì anh có hỏi nhưng chị Th và gia đình chị Th không cung cấp và giấu địa chỉ không cho anh được biết. Ngoài địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của chị Th ở thôn Ph, xã T, huyện LN, tỉnh Bắc Giang ra, anh không nắm được địa chỉ nào khác của chị Th. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và không thể về đoàn tụ được nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Lê Thị Th.

Về con chung và tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận, không có gì vướng mắc nên anh không yêu Tòa án đặt ra xem xét và giải quyết.

Vì lý do bận công việc nên anh Vũ Trí N có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Tại phiên toà, anh Vũ Trí N, vắng mặt.

Chị Lê Thị Th có địa chỉ tại thôn Ph, xã T, huyện LN, tỉnh Bắc Giang. Hiện chị Th đang đi lao động tại Đài Loan. Theo Công văn số 6737/QLXNC-P5 ngày 24/3/2021 của Cục Quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an cung cấp thì chị Th đã xuất nhập cảnh 05 lần, lần xuất cảnh gần nhất ngày 10/5/2019, hiện chưa có thông tin nhập cảnh về nước. Chị Lê Thị Th đã được Toà án giao, tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng hết thời hạn được quy định chị Th không có ý kiến, quan điểm và chứng cứ cung cấp, giao nộp cho Toà án để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.

Tại phiên tòa, chị Lê Thị Th vắng mặt.

Tham gia phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên toà Thẩm phán và Thư ký Toà án tuân theo đúng trình tự tố tụng, tại phiên toà Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, 56 Luật HNGĐ, xử:

- Về quan hệ vợ chồng: Cho anh Vũ Trí N được ly hôn với chị Lê Thị Th.

- Về án phí: Đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm vấn công khai tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:

[1]. Về tố tụng: Ngày 12/3/2021, Tòa án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử để mở phiên tòa xét xử vào 07 giờ 30’ ngày 30/3/2021 theo quy định của pháp luật. Do chị Lê Thị Th vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất nên Tòa án đã hoãn phiên tòa và ấn định thời gian mở phiên tòa xét xử lần hai vào 07h 30’ ngày 20/4/2021. Tòa án đã tiến hành tống đạt, giao các văn bản tố tụng cho các đương sự nhưng chị Lê Thị Th vẫn vắng mặt, còn anh Vũ Trí N vì lý do bận công việc nên có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 BLTTDS, HĐXX vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về quan hệ vợ chồng: Ngày 22/3/2010 anh N và chị Lê Thị Th có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện LN trên cơ sở tự nguyện hợp pháp. Cưới xong chị Th có về gia đình nhà anh làm dâu. Đến năm 2017 chị Th đi lao động tại Đài Loan. Vợ chồng sống ly thân và chấm dứt mọi quan hệ từ đó cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và không thể về đoàn tụ được nên anh N đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Lê Thị Th.

Xét thấy, cuộc sống chung vợ chồng anh N và chị Th đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy nguyện vọng xin được ly hôn của anh N là có cơ sở nên căn cứ vào Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, HĐXX chấp nhận cho anh N được ly hôn với chị Th như ý kiến của Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa.

[3]. Về con chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng anh N và chị Th có hai con chung, hiện các con đang sinh sống cùng anh N. Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 25/3/2021, để đảm bảo ổn định về mặt tâm lý, cuộc sống và học tâp của các con nên anh N có thay đổi yêu cầu không đề nghị Tòa án đặt ra xem xét, giải quyết về vấn đề con chung. Xét thấy việc thay đổi yêu cầu trên của anh N là hoàn toàn thự nguyện, không bị ai ép buộc nên căn cứ vào Điều 5 của BLTTDS, HĐXX không đặt ra xem xét và gải quyết.

[4].Về tài sản: Vợ chồng không có gì vướng mắc nên anh N cũng không yêu Tòa án xem xét và giải quyết.Căn cứ vào Điều 5 của BLTTDS, HĐXX không đặt ra xem xét và giải quyết.

[5]. Về án phí và quyền kháng cáo: Anh Vũ Trí N phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm ly hôn. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, 56 và Điều 57 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, 147, 227, 228, 238, 271, 272, 273 và Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6 và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

[1].Về quan hệ vợ chồng: Cho anh Vũ Trí N được ly hôn với chị Lê Thị Th.

[2].Về án phí: Anh Vũ Trí N phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí, anh N đã nộp theo biên lai thu số 0000840 ngày 15/12/2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.

Đương sự có mặt tại Việt Nam vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Đương sự cư trú ở nước ngoài không có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 20/04/2021 về ly hôn giữa anh N và chị Th

Số hiệu:46/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về