Bản án 46/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 46/2019/HS-ST NGÀY 26/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 8 năm 2019 tại Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai lưu động vụ án hình sự thụ lý số 46/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2019 đối với:

* Bị cáo: ơng Văn M - Sinh năm: 1976.

Nơi cư trú: Xóm 15, xã Nghĩa Th, huyện N, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; giới tính: Nam; họ và tên cha: Không xác định; họ tên mẹ: Dương Thị B, sinh năm 1953, hiện đang làm ruộng tại xóm 15, xã Nghĩa Th, huyện N, tỉnh Nam Định; có vợ là Hoàng Thị Ph, sinh năm 1979, hiện đang làm ruộng tại xóm 15, xã Nghĩa Th, huyện N, tỉnh Nam Định; có 03 con: Con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 12/03/2013, bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xử phạt 02 năm tù về tội: “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo Dương Văn M bị bắt, tạm giữ từ ngày 17/06/2019 đến ngày 20/06/2019 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Đặng Thị Anh Thư – Trợ giúp viên pháp lý, trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, Sở tư pháp tỉnh Nam Định; có mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Đồng Văn Nghĩa, sinh năm 1991; nơi cư trú: Xóm 3, xã Nghĩa Th, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

2. Anh Đàm Văn Ro, sinh năm 1963; nơi cư trú: Xóm 15, xã Nghĩa Th, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ ngày 17/6/2019, Dương Văn M đi xe bus lên khu vực chân cầu Đò Quan, thành phố Nam Định mua của một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ 600.000 đồng được 01 gói heroine và 250.000 đồng được 01 gói ma túy đá. Sau đó M bắt xe bus đi về nhà và chia gói heroine vừa mua được thành 02 gói nhỏ và cất giấu trong túi áo ngực bên phải M đang mặc; còn gói ma túy đá M cất giấu trong hòm sắt trên gác xép. Khoảng 18 giờ cùng ngày, M đang ở nhà thì Đồng Văn Nghĩa đến hỏi mua 200.000 đồng heroine. M đồng ý. Khi M và Nghĩa đang mua bán ma tuý thì bị tổ công tác Công an huyện N phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trên tay phải của Nghĩa 01 gói nhỏ, vỏ gói là giấy màu vàng bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (Được niêm phong ký hiệu M), Nghĩa khai nhận đó là gói heroine vừa mua của Dương Văn M với giá 200.000 đồng, thu giữ tại túi quần trước bên phải của Dương Văn M số tiền 200.000 đồng gồm 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng và 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng có số sê ri lần lượt là: DX 12622603, XZ 17892186 và DN 14497050, M khai nhận đó là tiền vừa bán 01 gói heroine cho Đồng Văn Nghĩa mà có. Ngoài ra tổ công tác Công an huyện N còn thu giữ tại túi áo ngực bên phải của M 01 gói nhỏ, vỏ gói bằng túi ni lông màu trắng, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (Được niêm phong ký hiệu M1), M khai nhận đó là gói heroine, M cất giấu để bán kiếm lời. Quá trình khám xét thu giữ trong hòm sắt trên gác xép 01 gói nhỏ, vỏ gói là túi ni lông màu trắng, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (Được niêm phong ký hiệu K), M khai nhận đó là gói ma túy đá, M cất giấu để bán kiểm lời.

Tại bản kết luận giám định số 611/GĐKTHS ngày 18/06/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định, kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 02 phong bì được niêm phong ký hiệu M và M1 gửi đến giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu M: 0,049 gam; khối lượng M1: 1,244 gam. Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 gói nhỏ, vỏ gói là túi ni lông màu trắng, được niêm phong ký hiệu K gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Khối lượng mẫu K: 0,863 gam.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N, Dương Văn M đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 29/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo như tội danh và điều luật đã nêu. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Dương Văn M từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 611/GĐKTHS ngày 18/6/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định; Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 200.000 đồng là tiền M bán ma túy mà có; đề nghị áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 6; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc để tuyên án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với bản luận tội của vị đại diện VKS. Đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn (điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS) để tuyên bị cáo với mức thấp nhất mà vị Đại diện VKS đề nghị.

Tại phiên toà hôm nay qua xét hỏi và tranh luận bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người làm chứng không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu đã được xác lập có trong hồ sơ vụ án cũng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo ra trước phiên toà hôm nay. Như vậy đã đủ cơ sở xác định: Khoảng 18 giờ ngày 17/6/2019, tại nhà ở của mình, Dương Văn M có hành vi bán trái phép 0,049 gam heroine cho Đồng Văn Nghĩa với giá 200.000 đồng thì bị Công an huyện N bắt quả tang. Ngoài ra Dương Văn M còn cất giấu 1,244 gam heroine và 0,863 gam Methamphetamine với mục đích để bán kiếm lời. Tổng khối lượng chất ma túy Dương Văn M có hành vi mua bán trái phép là 2,156 gam heroine và Methamphetamine. Đối chiếu với Bộ luật hình sự thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Hành vi đó của bị cáo đã xâm phạm trật tự trị an, an toàn xã hội trong khu vực, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn hoá của dân tộc. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng cố ý thực hiện. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử công khai, lên án xử lý nghiêm M là cần thiết nhằm góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu: : Ngày 12/03/2013, bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xử phạt 02 năm tù về tội: “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy”. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong vụ án này bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tập chung cải tạo đối với bị cáo nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì niêm phong số 611/GĐKTHS ngày 18/6/2019 (bên trong phong bì có 0,015 gam mẫu M; 1,202 gam mẫu M1 và 0,820 gam mẫu K, cùng vỏ bao gói mẫu M, M1, K), Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định, cần tịch thu tiêu huỷ;

Số tiền 200.000 đồng (gồm 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng và 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng có số sê ri lần lượt là: DX 12622603, XZ 17892186 và DN 14497050), cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

[6] Đối với Đồng Văn Nghĩa là người mua heroine của Dương Văn M nhưng khối lượng nhỏ và chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện N ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Đồng Văn Nghĩa là phù hợp.

Đi với người đàn ông bán ma túy cho Dương Văn M ngày 17/06/2019 tại khu vực chân cầu Đò Quan, thành phố Nam Định hiện chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục điều tra, xử lý sau.

[7] Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Tuyên bố bị cáo Dương Văn M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”;

2. Xử phạt bị cáo Dương Văn M 03 (ba) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/6/2019.

3. Xử lý vật chưng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 611/GĐKTHS ngày 18/6/2019 (bên trong phong bì có 0,015 gam mẫu M; 1,202 gam mẫu M1 và 0,820 gam mẫu K, cùng vỏ bao gói mẫu M, M1, K), Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định.

Tch thu sung quỹ nhà nước số tiền 200.000 đồng (gồm 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng và 02 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng có số sê ri lần lượt là: DX 12622603, XZ 17892186 và DN 14497050).

Vật chứng của vụ án đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N lập ngày 31/7/2019.

4. Án phí: Buộc bị cáo Dương Văn M phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án và người được thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:46/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Trực - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về