Bản án 46/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 46/2019/HS-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Trong ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 43/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đối với bị cáo:

Đỗ Văn Nh, sinh năm 1961; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Tổ 09, ấp Mỹ An, xã Vĩnh Châu, thành phố C.Đ, tỉnh An Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo Cao Đài; Nghề nghiệp: Chăn nuôi; Trình độ học vấn: Lớp 01/12; Cha: Đỗ Văn T (chết); Mẹ: Nguyễn Thị L (chết); Vợ: Đặng Thị Kim L1, sinh năm 1962; Có 02 người con, lớn sinh năm 1979, Nh sinh năm 1982.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 16/7/2019 cho đến nay.

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa: Luật sư Phạm Thái B – Văn phòng luật sư Phạm Thái B, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh An Giang bào chữa chỉ định cho bị cáo Đỗ Văn Nh, (có mặt).

Địa chỉ: Tổ 4, đường số 02, ấp An Lộc, thị trấn A.C, huyện C.T, tỉnh An Giang.

* Người bị hại: Trần Kim H. (chết)

* Đại diện hợp pháp cho người bị hại và đồng thời cũng là người bị hại:

Ông Nguyễn Hữu Kh, sinh năm 1969, (có mặt).

Nơi cư trú: Tổ 9, ấp Mỹ An, xã V. C, thành phố C.Đ, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vợ chồng Đỗ Văn Nh, Đặng Thị Kim L1 sống cùng xóm với vợ chồng Nguyễn Hữu Kh, Trần Kim H tại Tổ 9, ấp Mỹ An, xã Vĩnh Châu, thành phố C.Đ, tỉnh An Giang. Do nghi ngờ vợ mình là L1 có quan hệ bất chính với Kh, khoảng 17 giờ 15 phút ngày 16/7/2019, Nh chuẩn bị 01 đoạn tre dài 183,5cm, đầu đoạn tre gắn đoạn kim loại dài 97,5cm, mũi nhọn (cây chĩa); cây dao tự chế (cây mác) cán gỗ dài 50cm, lưỡi bằng kim loại dài 24,4cm, mũi nhọn và mang đến cất giấu cặp hàng rào, cách nhà của ông Kh khoảng 15m. Xong, Nh đến trước nhà gặp và ông Kh cho biết không có quan hệ tình cảm với L1 thì hai bên xảy ra cự cãi, Nh đi lại nơi cất giấu lấy cây chĩa và cây mác cầm trên tay phải quay lại, và cầm cây chĩa đâm trúng vào vùng ngực phải của Kh, bị Kh giật lấy bẻ công mũi chĩa, nên Nh buông cây chĩa ra và tiếp tục cầm cây mác trên tay phải định đâm ông Khá, cùng lúc này bà H (vợ của Kh) từ trong nhà chạy ra can ngăn, bị Nh đâm 01 nhát trúng vào vùng ngực trái của bà Hồng, làm bà H ngã gục xuống nền nhà, chết ngay sau đó. Còn Kh giằng co với Nh thì bị Nh gây thương tích vào vùng mũi, má, tay thì được ông Nguyễn Văn U, bà Trần Thị Cẩm L1 can ngăn, bắt giữ Nh và trình báo Công an xã V.C đến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Riêng, ông Kh được đưa đến Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang (tại thành phố Châu Đốc) điều trị vết thương, đến ngày 18/7/2019 ra viện.

Ngày 22/7/2019, Nh bị khởi tố điều tra.

* Vật chứng thu giữ: 01 đoạn tre dài 183,5cm, đầu gắn đoạn kim loại dài 97,5cm, mũi nhọn (cây chĩa); cây dao tự chế (cây mác) cán gỗ dài 50cm, lưỡi bằng kim loại dài 24,4cm và các vật dụng liên quan.

* Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 93/KLGT-PC09(PYTT) ngày 19/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang, kết luận nguyên nhân chết của Trần Kim H.

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vùng ngực trái có vết thương hình khe nằm xiên trái, góc trên tù, góc dưới nhọn, bờ mép sắc gọn, kích thước (4,5 x 1,3)cm, cách dưới trước hõm nách trái 6cm và cách trên sau núm vú trái 4cm. Vết thương có chiều hướng từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới, từ trái qua phải.

- Bầm tụ máu dưới da vùng ngực trái tương ứng vết thương bên ngoài.

- Đứt sụn sườn số 5 bên trái.

- Khoang màng phổi trái ứ nhiều dịch máu.

- Phổi trái xẹp, có vết thủng ở mép trong thùy trên phổi trái dài 2,5 cm.

- Màng ngoài tim có vết thủng dài 5,5cm. Khoang màng ngoài tim ứ nhiều dịch máu lỏng lẫn máu đông.

- Mặt trước tâm thất trái có vết thủng dài 4cm, mặt sau tâm thất trái có vết thủng dài 0,8cm. Buồng tim trái có ít máu lỏng.

2. Nguyên nhân chết: Suy tuần hoàn cấp do vết thương vùng ngực trái gây xuyên thủng thùy trên phổi trái và tâm thất trái.

* Căn cứ Kết luận giám định số 24, 26/KLGĐ-PC09 ngày 03/9/2019 và ngày 04/9/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang, kết luận:

- Vết màu nâu dính trên lưỡi cây mác gửi đến giám định là máu người, thuộc nhóm máu A.

- Vết màu nâu dính trên cán cây mác gửi đến giám định là máu người, thuộc nhóm máu B.

- Vết màu nâu dính trên cây chĩa gửi đến giám định là máu người, thuộc nhóm máu B.

- Vết màu nâu thu ở vị trí số 1 tại hiện trường là máu người, thuộc nhóm máu A.

- Vết màu nâu thu ở vị trí số 2 tại hiện trường là máu người, thuộc nhóm máu B.

- Vết màu nâu thu ở vị trí số 4 tại hiện trường là máu người, thuộc nhóm máu B.

- Mẫu máu của Trần Kim H, sinh năm 1970 thuộc nhóm máu A.

- Mẫu máu của Nguyễn Hữu Kh, sinh năm 1969 thuộc nhóm máu B

* Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 284/19/TgT ngày 04/9/2019 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh An Giang kết luận thương tích của Nguyễn Hữu Kh.

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo góc mũi kích thước 1.5 x 0.1cm, mờ, phẳng.

- Sẹo mặt trái kích thước 1.2 x 0.2cm, mờ, hơi lõm.

- Sẹo ngực phải kích thước 02 x 0.3cm, phẳng, hơi sậm màu.

- Sẹo mặt trong 1/3 dưới cẳng tay phải kích thước 04 x 0.5cm, phẳng, sậm màu.

- Sẹo mặt sau 1/3 giữa cẳng tay phải kích thước 1.5 x 0.5cm, phẳng, sậm màu. 02 sẹo mặt sau 1/3 trên cẳng tay trái kích thước 01 x 0.6cm, 0.5 x 0.3 cm.

- Vết sây sát rải rác mặt lưng ngón II bàn tay phải không tồn tại sẹo.

- Vết rách da mặt lưng ngón I bàn tay trái không tồn tại sẹo.

- Vết rách da đã khâu chỉ mặt trong ngón II bàn tay trái không tồn tại sẹo.

- Vết rách da mặt lưng ngón III, vết rách da mặt trong ngón III bàn tay trái kích thước không tồn tại sẹo.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 07% (bảy phần trăm). Thương tích không gây cố tật; Thương tích không ảnh hưởng thẩm mỹ.

* Căn cứ Kết luận giám định pháp y tâm thần số 186/2019/KLGĐTC và Công văn số 186.0/PYTT ngày 06/9/2019 của Trung tâm Pháp y Tâm thần khu vực Tây Nam Bộ đối với Đỗ Văn Nh, kết luận:

- Về y học: Trước, trong, sau khi phạm tội và hiện tại: Đương sự có bệnh lý tâm thần: Rối loạn hoang tưởng (F22.0-ICD10).

- Về năng lực: Tại thời điểm phạm tội và hiện tại: Đương sự hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi do bệnh lý tâm thần.

- Về trách nhiệm hình sự: Tại thời điểm phạm tội và hiện tại: Đương sự có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhưng có bệnh lý tâm thần làm hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại Bản Cáo trạng số 54/CT-VKSAG-P1 ngày 23/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo Đỗ Văn Nh, về tội “Giết người” theo các điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo Đỗ Văn Nh khai nhận: Do bị cáo nghi ngờ vợ là bà Loan có quan hệ bất chính với Khá nhiều lần nhưng bị cáo không bắt được quả tang, nên vào khoảng chiều ngày 16/7/2019, bị cáo lấy 01 đoạn tre, đầu có gắn đoạn kim loại mũi nhọn và 01 cây dao tự chế cất giấu ở cặp hàng rào, cách nhà Khá khoảng 15m. Sau đó bị cáo đi đến nhà Khá để hỏi sự việc thì xảy ra cự cãi nhau, do tức giận bị cáo đi lại nơi cất giấu lấy cây chĩa và cây mác cầm trên tay phải quay lại và cầm cây chĩa đâm trúng vùng người Kh, cùng lúc bà H là vợ của Kh từ trong nhà chạy ra can ngăn, bị cáo cầm cây mác đâm trúng một nhát vào vùng ngực của bà H, thấy bà H quỵ xuống nền nhà. Bị cáo biết hành vi của mình là gây ra cái chết của bà Hồng, là vi phạm pháp luật, rất ăn năn, hối cải. Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, tranh luận, xem xét tính chất vụ án, mức độ và hậu quả từ hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Giữ nguyên Cáo trạng như đã truy tố đối với bị cáo Đỗ Văn Nh, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng các điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điều 584; Điều 585; Điều 586 và Điều 591 Bộ luật Dân sự năm 2015. Điều 106 Bộ luật Tố Tụng hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Văn Nh từ 15 năm đến 17 năm tù, về tội “Giết người”.

Buộc bị cáo Đỗ Văn Nh phải có trách nhiệm bồi thường thiệt cho đại diện hợp pháp bị hại tiền chi phí điều trị, tiền chi phí mai táng và tiền bồi thường tiền tổn thất tinh thần với tổng số tiền là 114.000.000 đồng.

Luật sư trình bày lời bào chữa cho bị cáo Đỗ Văn Nh: Thống nhất về tội danh và khung hình phạt như Viện kiểm sát đã truy tố không tranh luận. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử có quan tâm xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình khó khăn; học lực thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế; bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi do có bệnh lý tâm thần; khắc phục một phần thiệt hại cho người bị hại; bị cáo đang điều trị bệnh tiểu đường; có thể xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng và chứng cứ trong hồ sơ vụ án: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh An Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng như các chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đều hợp pháp.

Tại phiên tòa vắng mặt một số người làm chứng không rõ lý do, nhưng đã được Tòa án tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra và sự vắng mặt của họ không gây trở ngại đến việc xét xử giải quyết vụ án. Khi cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của họ tại phiên tòa. Căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo Đỗ Văn Nh tại phiên tòa hôm nay, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, lời khai của người làm chứng về diễn biến của vụ án; phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường; Biên bản khám nghiệm tử thi; Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 93/KLGT-PC09 ngày 19/7/2019; các Kết luận giám định số 24, 26/KLGĐ-PC09 ngày 03/9/2019 và 04/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang; Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 284/19/TgT ngày 04/9/2019 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh An Giang; phù hợp với thương tích để lại trên người nạn nhân Trần Kim H, thương tích của người bị hại Nguyễn Hữu Kh. Ngoài ra, còn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đã có đủ căn cứ để kết luận: Bị cáo Đỗ Văn Nh đã có hành vi dùng cây chĩa, cây mác là loại hung khí nguy hiểm đâm giết chết Nguyễn Hữu Kh và Trần Kim H. Việc Kh không chết, bị thương tích 07% là do được can ngăn kịp thời. Cho nên, hành vi của bị cáo Đỗ Văn Nh đã phạm tội “Giết người”, tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo Đỗ Văn Nh về tội danh và Điều luật là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy:

Bị cáo Đỗ Văn Nh tuy có bệnh lý tâm thần làm hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, nhưng có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình, phân biệt được việc nào đúng, việc nào sai, việc nào là vi phạm pháp luật, đồng thời vẫn đủ khả năng để lựa chọn giải pháp phù hợp trong việc giải quyết các tình huống mâu thuẫn phát sinh, nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật, hậu quả xảy ra và cố ý thực hiện. Lẽ ra, khi giữa bị cáo và người bị hại phát sinh mâu thuẫn không lớn, thì bị cáo phải bình tĩnh, tìm biện pháp giải quyết phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội hoặc nhờ cơ quan có chức năng giải quyết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên, bảo vệ mối quan hệ tình làng, nghĩa xóm thì sự việc đáng tiếc sẽ không xảy ra. Nhưng bị cáo không làm được điều đó, mà chỉ vì xuất phát từ việc bị cáo nghi ngờ ông Kh có quan hệ tình cảm bất chính với bà L1 là vợ bị cáo, nên với bản tính cố chấp, côn đồ hung hãn, sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết mâu thuẫn, bị cáo đã chủ động chuẩn bị cây chĩa nhọn và cây mác là loại hung khí cực kỳ nguy hiểm đâm vào người ông Kh, khi bị đâm ông Kh dùng tay phản ứng bẻ công chĩa thì bị cáo tiếp tục dùng cây mác định đâm Kh, lúc này vợ Kh là bà H vào can ngăn thì bị cáo đã dùng mác đâm trúng vùng ngực phải gây ra cái chết của bà H và gây thương tích cho ông Kh với tỷ lệ 7%, việc Khá không chết là do được can ngăn kịp thời.

Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, phạm vào nhiều tình tiết tăng nặng định khung hình phạt là “Giết 02 người trở lên” và “Có tính chất côn đồ”; trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của người bị hại một cách trái pháp luật; gây ra đau thương, mất mát cho gia đình nạn nhân mà không gì có thể bù đắp được; gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần có một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; chưa có tiền án, tiền sự; hoàn cảnh gia đình khó khăn; xuất thân từ thành phần nhân dân lao động nghèo, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế; xin lỗi gia đình người bị hại; khắc phục một phần hậu quả cho người bị hại; bị cáo có bệnh lý tâm thần làm hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Do đó, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có cân nhắc xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo là người trực tiếp xâm hại đến tính mạng của người bị hại thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày, đã nhận được 20.000.000 đồng từ gia đình bị cáo, nay yêu cầu bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thêm tiền chi phí mai táng, điều trị vết thương, tiền tổn thất tinh thần, tổng cộng là 114.000.000 đồng và xử phạt bị cáo theo quy định pháp luật. Bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của ông Kh. Xét thấy sự thỏa thuận của các bên là phù hợp quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Do đó, bị cáo Đỗ Văn Nh phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại số tiền là 114.000.000 đồng (Một trăm mười bốn triệu đồng), do Nguyễn Hữu Kh đại diện nhận.

[5] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ các vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/10/2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

[6] Án phí: Bị cáo Đỗ Văn Nh phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Do hoàn cảnh gia đình bị cáo có khó khăn, nên Hội đồng xét xử quyết định miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn Nh phạm tội “Giết người”.

Áp dụng: các điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Điều 584; Điều 585; Điều 586 và Điều 591 Bộ luật Dân sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Văn Nh 15 (Mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/7/2019.

Buộc bị cáo Đỗ Văn Nh phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại số tiền là 114.000.000 đồng (Một trăm mười bốn triệu đồng), do anh Nguyễn Hữu Kh đại diện nhận.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nhưng người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ thì còn phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng không còn giá trị sử dụng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/10/2019. của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

Bị cáo Đỗ Văn Nh phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, đại diện hợp pháp cho người bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, sự tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

516
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 về tội giết người

Số hiệu:46/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về