Bản án 46/2019/HNGĐ-ST ngày 17/06/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 46/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/06/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 17 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 150/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 4 năm 2019 về việc tranh chấp “Hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lại Thị Y - Sinh năm 1981 (Có mặt)

Trú quán: Thôn C – Xã NH – Huyện LN - Bắc Giang.

Bị đơn: Anh Từ Văn H - Sinh năm 1976 (Vắng mặt)

Trú quán: Thôn C – Xã NH – Huyện LN - Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/4/2019 và những lời khai của nguyên đơn chị Lại Thị Y lời khai của bị đơn anh Từ Văn H và trong quá trình xét xử, nội dung vụ án như sau:

Chị Lại Thị Y và và anh Từ Văn H kết hôn với nhau vào tháng 01 năm 2000. Trước khi kết hôn hai bên có được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo đúng phong tục địa phương. Chị Y anh H có đến Ủy ban nhân dân xã NH, huyện LN, tỉnh Bắc Giang đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau ngày cưới chị Y, anh H về chung sống cùng nhau ngay tại thôn C - xã NH, huyện LN, tỉnh Bắc Giang. Chị Y cho rằng cuộc sống giữa chị và anh H chỉ hạnh phúc được một thời gian ngắn sau đó đã phát sinh mâu thuẫn do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau làm cho tình cảm vợ chồng rạn nứt, chị đã nhẫn nhịn một thời gian dài để các con trưởng thành nhưng tình cảm vợ chồng không cải thiện. Từ tháng 01/2019 vợ chồng mâu thuẫn đỉnh điểm, trong khi cãi nhau anh H đã đuổi chị về nhà mẹ đẻ ở thôn T - xã NH, huyện LN, tỉnh Bắc Giang, chị và anh H ly thân từ đó đến nay. Anh H cho rằng cuộc sống giữa anh và chị Y cũng có một số mâu thuẫn do không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống nhưng không nghiêm trọng lắm. Tuy nhiên do bất đồng quan điểm nên giữa anh và chị Y cũng có cãi nhau. Ngày 03/01/2019 (Âm lịch) do vợ chồng không thống nhất được công việc, nên giữa anh và chị Y có xảy cãi nhau, anh nóng giận và kèm chị Y trả về nhà bố mẹ đẻ chị Y ở thôn T - xã NH, huyện LN, tỉnh Bắc Giang. Đến ngày 08/01/2019 anh đi làm ăn xa đến cuối tháng 3 năm 2019 anh đi làm về thì vợ chồng liên tục cãi nhau và chị Y liên tục nói không còn tình cảm với anh nữa và đòi ly hôn với anh. Đến nay chị Y xác định tình cảm vợ chồng với anh H không còn. Chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H. Anh H xác định vẫn còn tình cảm với chị Y nên anh chưa đồng ý ly hôn với chị Y.

Về con chung: Chị Y, anh H đều xác định có 02 con chung là cháu Từ Thị Như Q - sinh năm 2000 và cháu Từ Đại D - Sinh ngày 10/10/ 2003. Vợ chồng ly hôn chị Y anh H cho rằng cháu Q đã trưởng thành, anh chị không có ý kiến gì, còn cháu D cũng đã lớn ở với ai là quyền của cháu, anh chị không có ý kiến gì. Anh H, chị Y không yêu cầu Toà án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con. Cháu Từ Đại D trình bày nguyện vọng xin được ở với chị Y khi bố mẹ ly hôn.

Về tài sản chung, công nợ chung, ruộng canh tác: Chị Y, anh H đều không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa chị Y vẫn giữ nguyện nội dung đơn khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H. Về con chung vì cháu Như Q đã trưởng thành nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết, riêng cháu Từ Đại D có nguyện vọng ở với chị, chị đồng ý và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị, không yêu cầu Toà án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Tại phiên toà anh H vắng mặt lần thứ hai, Hội đồng xét xử công bố lời khai của anh H, cháu D có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát phát biểu việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án và của các đương sự. Thẩm phán, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự thủ tục tố tụng, xác định đúng thẩm quyền, quan hệ pháp luật, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử thực hiện đúng nguyên tắc, trình tự tố tụng dân sự. Các đương sự đã chấp hành đúng các quy định về quyền nghĩa vụ của mình quy định tại Điều 70, 71, 72 Bộ luật tố tụng dân sự. Phát biều ý kiến về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ các Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Khoản 1 Điều 227; Điều 271; Điều 273; Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 51; Điều 53; Điều 56, Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân gia đình.

Căn cứ các Điều 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lại Thị Y: Cho chị Lại Thị Y được ly hôn với anh Từ Văn H.

Về con chung: Giao cho chị Lại Thị Y nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Từ Đại D - Sinh ngày 10/10/ 2003. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn anh H được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được ngăn cản anh H thực hiện quyền này.

Về án phí: Chị Lại Thị Y phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số: AA/2018/0005410 ngày 11/4/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Ngạn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về Thẩm quyền giải quyết và thủ tục tố tụng: Chị Lại Thị Y khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân huyện Lục Ngạn giải quyết ly hôn, con chung với anh Từ Văn H. Đây là quan hệ tranh chấp hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà anh H vắng mặt lần thứ hai, Toà án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho anh H theo quy định của pháp luật và tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh H theo thủ tục chung.

[2] Xét yêu cầu của đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Về quan hệ hôn nhân: Chị Y, anh H tự nguyện tìm hiểu, không bị ai ép buộc, có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã xã NH, huyện LN, tỉnh Bắc Giang theo quy định của pháp luật, do vậy đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống chị Y và anh H đều thừa nhận vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, đến nay không ai còn quan tâm tới ai. Chị Y đề nghị giải quyết ly hôn anh H chưa đồng ý. Tại phiên tòa hôm nay chị Y kiên quyết không muốn về đoàn tụ cùng anh H. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị Y anh H mâu thuẫn là có thật, vợ chồng đã sống ly thân với nhau một thời gian đến nay đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Tòa án cũng đã kiên trì hòa giải để cho hai bên về đoàn tụ nhưng không có kết quả. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận đơn khởi kiện của chị Y đối với anh H: Cho chị Y được ly hôn với anh H.

[3] Về con chung: Chị Y anh H Đều xác định có 02 con chung là cháu Từ Thị Như Q - sinh năm 2000 và cháu Từ Đại D - Sinh ngày 10/10/ 2003. Cháu Từ Thị Như Q đã trưởng thành chị Y và anh H không có yêu cầu, đề nghị gì. Đối với cháu Từ Đại D có nguyện vọng được ở với chị Y, anh H cũng nhất trí theo nguyện vọng của cháu D. Chị Y đồng ý theo nguyện vọng của cháu D, nhất trí nuôi dưỡng chăm sóc cháu D sau khi ly hôn, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con và không đề nghị Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con. Do vậy cần giao cháu D cho chị Y nuôi dưỡng chăm sóc là phù hợp Điều 81 Luật hôn nhân gia đình và phù hợp với nguyện vọng của cháu D. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra xem xét giải quyết, vì các đương sự không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung, công nợ chung, ruộng canh tác: Chị Y, anh H không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử đặt ra không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Lại Thị Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Khoản 1 Điều 227; Điều 271; Điều 273; Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 51; Điều 53; Điều 56, Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân gia đình.

Căn cứ các Điều 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lại Thị Y: Cho chị Lại Thị Y được ly hôn với anh Từ Văn H.

Về con chung: Giao cho chị Lại Thị Y nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Từ Đại D - Sinh ngày 10/10/ 2003. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn anh H được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được ngăn cản anh H thực hiện quyền này.

Về án phí: Chị Lại Thị Y phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số: AA/2018/0005410 ngày 11/4/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Ngạn.

Báo cho đương sự có mặt biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2019/HNGĐ-ST ngày 17/06/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:46/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về