Bản án 46/2018/HS-ST ngày 10/07/2018 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 46/2018/HS-ST NGÀY 10/07/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 10 tháng 07 năm 2018 tại Hội trường xét xử A - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2018/HSST ngày 12 tháng 06 năm 2018, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2018/HSST ngày 29 tháng 06 năm 2018, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần K - sinh ngày: 03/12/1984 tại Tiền Giang; Nơi cư trú: 257 ấp C, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang; Chứng minh nhân dân số: 311768986, cấp ngày 15/10/2013, nơi cấp: Công an Tiền Giang; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn N, sinh năm: 1956 và bà: Huỳnh Thị B, sinh năm: 1956; có vợ: Đặng Thị Châu L, sinh năm 1984; có 02 con: lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 08/3/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng nai xử phạt 01 năm tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/10/2012; Bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an huyện Thống Nhất từ ngày: 27/03/2018. (có mặt)

* Người bị hại: Anh Nguyễn Quí D (đã chết)

 Đại diện hợp pháp của người bị hại: Lê Thị A sinh năm: 1954 (mẹ anh D) Nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện H, tỉnh Bình Định.

Đại diện theo ủy quyền của bà Ảnh: Ông Nguyễn Văn H sinh năm: 1982 Nơi cư trú: 24 Trần Độc, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định. (Văn bản ủy quyền ngày 03/05/2018) (có mặt)

 * Bị đơn dân sự: Chị Lâm Thị Liên H sinh năm: 1980 Nơi cư trú: Ấp T, xã L, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. (vắng mặt)

 * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lâm Thị Bích T sinh năm: 1990 Nơi cư trú: Ấp T, xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang. (vắng mặt)

 * Người làm chứng: Anh Nguyễn Trung H sinh năm: 1986 Nơi cư trú: Khu phố 4, phường 2, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. (vắng mặt)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 24/03/2018, Trần K (có giấy phép lái xe hạng E số 790079012805 theo quy định) điều khiển xe ôtô khách biển số 63B-01320, lưu thông trên Quốc lộ 20 theo hướng Đà Lạt – Dầu Giây. Phía trước cùng chiều có xe ôtô bán tải: 49C-137.10 do anh Phạm Ngọc C – sinh năm: 1966, trú tại: thôn 5, xã Đ, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng điều khiển đang lưu thông cùng chiều phía trước.

Đến 22 giờ 25 phút cùng ngày, khi lưu thông đến Km 07+50 Quốc lộ 20 thuộc ấp N, xã Q, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Trần K điều khiển xe ôtô biển số 63B-01320 vượt lên từ phía sau bên trái xe ô tô biển số 49C-137.10 đi lấn sang làn đường của xe ôtô ngược chiều (bánh trước bên trái xe ôtô 63B - 01320 cách tim đường khoảng 01m), không nhường đường cho các xe ngược chiều trong đoạn đường định vượt. Cùng lúc này, có xe môtô biển số 77H7 - 3665 do anh Nguyễn Quí D – sinh năm: 1993, trú tại: 24 Trần Độc, phường Q, thành phố Q, tỉnh Bình Định điều khiển lưu thông trên làn đường của xe ôtô hướng Dầu Giây – Đà Lạt đang chạy đến. Do phát hiện xe ô tô biển số 63B – 01320 ở khoảng cách gần, anh D đã không kịp xử lý, làm phần đầu xe và bánh trước xe môtô biển số 77H7-3665 đã va đụng trực diện vào bên trái đầu xe ôtô biển số 63B – 01320.

Sau khi va chạm tai nạn với xe môtô biển số 77H7-3665, Trần K vội vàng đánh tay lái xe biển số 63B – 103.20 sang phải, làm phần đầu bên phải xe ôtô biển số 63B – 013.20 tiếp tục va đụng vào bên trái xe ôtô biển số 49C - 137.10.

Hậu quả: anh Nguyễn Quí D bị đa chấn thương; chấn thương sọ não, chết tại chỗ; xe môtô 77H7 - 3665; xe ôtô 49C - 137.10 và ôtô 63B – 013.20 hư hỏng nhẹ.

Căn cứ kết quả khám nghiệm xác định hiện trường sau tai nạn như sau:

Vụ tai nạn giao thông xảy ra trên đoạn đường cong, mặt đường trải nhựa, đường chia làm hai chiều xe chạy bằng vạch sơn cách quãng, chiều rộng của mặt đường là 14m00.

Lấy hướng Định Quán về Dầu Giây làm chuẩn để đo vẽ hiện trường. Lấy tim đường làm chuẩn để đo vẽ hiện trường. Lấy điểm nhô cao nhất của gốc cột điện số 182 làm điểm chuẩn.

Vết cày dài 19m80, đầu vết cày đo vào tim đường là 01m00, cuối vết cày là điểm tiếp giáp đầu gác chân trước bên trái xe mô tô 77H7 – 3665 với mặt đường.

Xe mô tô biển số 77H7 – 3665 sau tai nạn nằm ngã bên trái, đầu xe quay về hướng lề trái chếch về hướng định Quán, đuôi xe quay về hướng tim đường, trục bánh trước đo vào tim đường là 1m90, trục bánh sau đo vào tim đường là 01m50, trục bánh trước đo đến đầu bàn chân phải nạn nhân Nguyễn Qúi D là 0m70.

Nạn nhân Nguyễn Qúi D sau tai nạn nằm sấp, đầu nạn nhân quay vào hướng tim đường chân nạn nhân hướng vào lề trái, đầu nạn nhân đo vào tim đường là 0m60, đầu bàn chân phải nạn nhân đo vào tim đường là 1m60.

Xe ô tô biển số 63B – 103.20 sau tai nạn dừng lại trên đường, đầu xe hướng Dầu Giây, đuôi xe hướng về Định Quán, tâm trục bánh trước bên trái đo ra tim đường là 0m70, tâm trục bánh trước bên trái đo đến trục bánh sau xe mô tô biển số 77H7 – 3665 là 02m, tâm trục bánh sau bên trái nằm trên tim đường.

Căn cứ Kết luận giám định tư pháp các nội dung theo trưng cầu giám định số 98/QĐ ngày 10/5/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất về việc giám định vận tốc của ô tô gây tai nạn, kết luận như sau:

Tốc độ phương tiện xe ô tô khách biển số 63B – 103.20 tại thời điểm gây tai nạn 22h 25’43” là 41km/h.

Căn cứ Bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 178/PC54 - KLGĐPY ngày 26/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Nguyên nhân tử vong của anh Nguyễn Quí D là: Chấn thương sọ não và hàm mặt nặng, vỡ xương trán hai bên, vỡ xương nền sọ trước; gãy xương sống mũi, gãy cung xương gò má hai bên; gãy xương hàm trên, hàm dưới. Kết luận khác: nồng độ cồn trong máu: 55,16 mg/100ml.

Bản cáo trạng số 39/CT.VKS-HS ngày 12 tháng 06 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Trần K về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Trần K từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng.

Cấm bị cáo hành nghề lái xe từ 01 đến 02 năm.

* Về xử lý vật chứng: 01 Giấy phép lái xe hạng E số 790079012805 là của bị cáo Trần K Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện đã thu giữ, đề nghị Tòa án tuyên trả lại cho bị cáo Trần K.

* Về trách nhiệm dân sự: Trần K và chủ xe ô tô biển số 63B – 103.20 đã bồi thường cho gia đình nạn nhân Nguyễn Quí D số tiền 275.000.000 đồng (Hai trăm bảy mươi lăm triệu đồng) (bao gồm: chi phí mai táng; chi phí sửa chữa phương tiện, tổn thất tinh thần). Đại diện gia đình nạn nhân Nguyễn Quí D đã có đơn bãi nại dân sự và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Trần K.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Thành thật xin lỗi gia đình người bị hại, bị cáo đã ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét cho bị cáo mức án nhẹ để tạo điều kiện cho bị cáo chăm lo gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thống Nhất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại; đại diện bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng số 39/CT.VKS-HS ngày 12/06/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất đã truy tố, đủ cơ sở kết luận:

Vào khoản 22 giờ 25 phút ngày 24/03/2018, tại Km 07+50 Quốc lộ 20 thuộc ấp N, xã Q, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, Trần K đã điều khiển xe ôtô biển số 63B-013.20 chạy theo hướng Đà Lạt – Dầu Giây vượt xe ôtô biển số 49C-137.10 do anh Phạm Ngọc C điều khiển đi phía trước cùng chiều đã lấn sang làn đường của xe ôtô ngược chiều, không nhường đường cho các xe ngược chiều trong đoạn đường định vượt đã va đụng vào môtô biển số 77H7-3665 do anh Nguyễn Quí D điều khiển chạy trên phần đường của xe ô tô theo hướng Dầu Giây – Đà Lạt và xe ôtô 49C- 137.10. Hậu quả: làm anh Nguyễn Quí D chết tại chỗ; xe môtô 77H7-3665, xe ôtô 49C-137.10 và ôtô 63B-01320 bị hư hỏng nhẹ. Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố bị cáo Trần K về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ chính xác, đúng quy định pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, không chấp hành các quy tắc an toàn giao thông đường bộ. Cụ thể: đi lấn sang làn đường của xe ôtô ngược chiều, không nhường đường cho các xe ngược chiều trong đoạn đường định vượt đã gây hậu quả nghiêm trọng làm chết 01 người, xâm phạm đến trật tự giao thông công cộng, gây tổn thất về tinh thần cho gia đình người bị hại. Cần có mức án đủ nghiêm, tương xứng với hành vi bị cáo gây ra nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo chấp hành nghiêm pháp luật và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Về nhân thân: Ngày 08/3/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai xử phạt Trần K 01 năm tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội ra đầu thú, đã cùng chủ xe thương lượng bồi thường thiệt hại. Đại diện gia đình người bị hại đã bãi nại, xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, ông nội bị cáo là liệt sỹ, thuộc gia đình có công với cách mạng.

Xét về lỗi, người bị hại có 01 phần lỗi, điều khiển xe mô tô trên phần đường xe ô tô, nồng độ cồn trong máu vượt quá giới hạn cho phép: 55,15mg/100ml. Nguyên nhân vụ tai nạn do lỗi hỗn hợp. Căn cứ khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015 và các tình tiết giảm nhẹ. Xét không cần thiết cách ly bị cáo khỏi cộng đồng. Thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Nhưng phải cấm bị cáo hành nghề lái xe trong thời hạn 02 năm kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị miễn chấp hành hình phạt tù cho bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện người bị hại đã nhận bồi thường số tiền 270.000.000đ, không có yêu cầu gì khác.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 xe môtô 77H7 – 3665 thuộc sở hữu của anh Nguyễn Quí D, xe có giấy tờ hợp lệ; Xe ô tô biển số 63B – 103.20, hiệu Universe – NGT, màu sơn: xanh, xám đỏ, số máy D6AB9181084, số khung SE6NCX000017 thuộc sở hữu của Lâm Thị Bích T, xe có giấy tờ hợp lệ; Xe ôtô 49C - 137.10, nhãn hiệu Mada, màu sơn xanh, số máy P4AT2306050, số khung 4DDXWW626857 thuộc sở hữu của anh Phạm Ngọc C, xe có giấy tờ hợp lệ, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất đã trao trả cho anh Phạm Ngọc C, bà T và gia đình anh Nguyễn Quí D.

- 01 Giấy phép lái xe hạng E số 790079012805 của bị cáo Trần K Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện đã tạm giữ, trả lại cho bị cáo.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 41, Điều 65 - Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Trần K phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Xử phạt: Bị cáo Trần K 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án.

Giao cho UBND xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang quản lý, giám sát, giáo dục bị cáo Trần K trong thời gian thử thách.

Cấm bị cáo hành nghề lái xe 02 năm, thời hạn tính từ ngày án có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

* Về vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trả lại 01 giấy phép lái xe hạng E số 790079012805 do Sở Giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 29/09/2015 cho bị cáo Trần K.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Tòa án huyện Thống nhất theo biên bản giao nhận ngày 12/06/2018)

* Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Báo cho bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2018/HS-ST ngày 10/07/2018 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:46/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về