Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 10/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 46/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 10 tháng 10 năm 2018, tại Toà án nhân dân huyện Minh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2018/TLST – HNGĐ ngày 17/01/2018 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2018/QĐST- HNGĐ ngày 19/4/2018 của Toà án nhân dân huyện Minh Hoá giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Đinh Mạnh H

Trú tại: Thôn P, xã Trung H, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình - có mặt.

2. Bị đơn: Chị Đinh Thị Đ

Trú tại: Thôn P, xã Trung H, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình - vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ghi ngày 15/01/2018 của nguyên đơn Đinh Mạnh H trình bày: giữa anh H và chị Đ đã đăng ký kết hôn ngày 30/6/2005 tại Ủy ban nhân dân xã Trung H, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng thương yêu hòa thuận. Sau một thời gian phát sinh mâu thuẫn, sống không hợp nhau, vợ chồng sống ly thân đã lâu. Vì vậy anh H làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đ

Con chung của vợ chồng: Anh H và chị Đ có với nhau 01 con chung là cháu Đinh Vũ H, sinh ngày 16/4/2006, nguyện vọng của anh H nếu ly hôn xin được nuôi dưỡng con chung và yêu cầu chị Đ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 300.000 đồng.

Tài sản chung : Không có.

Về vay chung: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa đã thụ lý vụ kiện theo yêu cầu của anh Đinh Mạnh H

Về phía bị đơn Đinh Thị Đ, sau khi thụ lý vụ án Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã triệu tập chị Đ nhiều lần nhưng chị Đ cố tình không đến Toà án để tham gia các phiên hoà giải. Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã đến tại cơ sở và xác minh thì được biết hiện nay chị Đ đang làm ăn xa nhưng vẫn biết có giấy triệu tập của Tòa án nhưng cố tình không hợp tác với Tòa án để giải quyết vụ án. Tòa án đã niêm yết tất cả các giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử và thông báo mở lại phiên tòa tại Ủy ban nhân dân xã nơi chị Đ cư trú nhưng chị Đ vẫn không đến tòa án để giải quyết vụ án.

Ngày 07/ 5/2018, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm ly hôn đối với anh Hùng và chị Đ, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng chị Đ vắng mặt nên đã hoãn phiên toà vì lý do vắng mặt bị đơn. Tại phiên tòa hôm nay chị Đ vẫn vắng mặt không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Anh Đinh Mạnh H và chị Đinh Thị Đ đã đăng ký kết hôn vào ngày 30/6/2005 tại Ủy ban nhân dân xã Trung H, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, nên được coi đây là cuộc hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống 2 vợ chồng đã có với nhau 01 con chung. Đáng lẽ ra anh chị đã có một gia đình hạnh phúc, nhưng chỉ vì những bất đồng quan điểm trong cuộc sống vợ chồng mà giữa anh chị đã xảy ra mẫu thuẫn trầm trọng không thể hoà giải được.

Về phía bị đơn chị Đinh Thị Đ có hộ khẩu thường trú tại Thôn P, xã Trung H, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình, nhưng cố tình dấu địa chỉ mặc dù đã được Toà án tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt tại Toà án. Ngày 07/ 5/2018, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm ly hôn đối với anh H và chị Đ. Mặc dù đã được Tòa án tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập hợp lệ nhưng chị Đ vẫn vắng mặt, nên đã hoãn phiên toà vì lý do vắng mặt bị đơn. Tại phiên tòa hôm nay chị Đ đã được toà án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Toà án tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét thấy mâu thuẩn của hai vợ chồng là rất trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên xử cho vợ chồng được ly hôn là đúng quy định tại các điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

 [2] Về con chung: Xét thấy nguyện vọng của anh H là hợp lý vì con hiện nay đang ở cùng anh H và cháu H có nguyện vọng xin được ở với bố khi bố mẹ ly hôn nên xử giao cho anh H trực tiếp chăm sóc con chung là thỏa đáng và yêu cầu chị Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con một tháng 300.000, đồng là đúng với quy định tại các điều 81, 82 Luật Hôn nhân và Gia đình.

 [3] Tài sản chung : Không có nên miễn xét

 [4] Về vay chung: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

 [5] Về án phí: Anh Đinh Mạnh H phải chịu 300.000, đồng ( Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp ly hôn nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000, đồng theo biên lai số: 0003969 ngày 17/01/2018 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình anh H đã nộp đủ án phí. Chị Đ phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo đình kỳ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Đinh Mạnh H được ly hôn với chị Đinh Thị Đ.

2. Về con chung: Giao anh Đinh Mạnh H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Đinh Vũ H, sinh ngày 16/4/2006, chị Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 300.000 đ (Ba trăm ngàn đồng). Thời gian nộp tiền cấp dưỡng kể từ tháng 10/2018 cho đến khi cháu H tròn 18 tuổi. Hai bên có quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở thực hiện quyền này. Khi cần thiết vì quyền lợi của con một trong hai bên có quyền làm đơn yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Anh Đinh Mạnh H phải chịu 300.000, đồng ( Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp ly hôn nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000, đồng theo biên lai số: 0003969 ngày 17/01/2018 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình anh H đã nộp đủ án phí. Chị Đ phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo đình kỳ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trường hợp bên phải thi hành án do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán quy định tại Khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự mà không có thỏa thuận lãi suất thì thực theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự được xác định mức lãi suất quá hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự để trả cho bên được thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (10/10/2018), bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án tại trụ sở UBND xã Trung H, huyện Minh H, tỉnh Quảng Bình để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2018/HNGĐ-ST ngày 10/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:46/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Minh Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về