Bản án 46/2017/HNGĐ-ST ngày 30/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 46/2017/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 30/8/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 126/2017/TLST-HNGĐ ngày 04/7/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2017/QĐST-HNGĐ ngày 07/8/2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lâm H, sinh năm 1984 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã V, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng

2. Bị đơn: Ông Trần B, sinh năm 1982 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã V, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 21/6/2017 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Lâm H trình bày: Vào năm 2007 bà H và ông Trần B tự nguyện chung sống với nhau, có tổ chức lễ cưới nhưng không có đăng ký kết hôn. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2011 do cuộc sống khó khăn, bà H và ông B phải gửi con lại cho mẹ ruột bà H nuôi dưỡng để vợ chồng bà đi tỉnh D làm công nhân thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do ông B quản lý tất cả tiền bạc do vợ chồng làm ra, ông B ăn chơi, không lo cho vợ con, khi say rượu thì dùng những lời lẽ thô tục sỉ nhục và dùng bạo lực với bà H. Hiện bà H nhận thấy không thể chung sống với ông B được nữa, nên có nguyện vọng ly hôn. Vợ chồng có 01 con chung là Trần D, sinh ngày 25/11/2008 hiện đang sống với bà H.

Nay bà H yêu cầu được ly hôn với ông B. Về con chung, bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Trần B nhưng ông B không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu ly hôn, nuôi con của bà H, đồng thời ông B cũng không đến tham gia phiên hòa giải cũng như tham gia phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, tuy nhiên sự chấp hành pháp luật của bị đơn chưa đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Do đề nghị Tòa án tuyên bố không công nhận bà Lâm B và ông Trần B là vợ chồng và chấp nhận yêu cầu nuôi con được nuôi con của nguyên đơn bà Lâm H

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tòa án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập xét xử đến lần thứ hai cho ông Trần B nhưng ông B vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông Trần B.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Lâm H, nhận thấy bà H và ông B tự nguyện chung sống với nhau, có tổ chức lễ cưới năm 2007, nhưng không có đăng ký kết hôn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình thì việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định thì không có giá trị pháp lý. Tại điểm b khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 của Quốc hội, về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình cũng quy định: Nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật hôn nhân và gia đình thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.

Bà H và ông B chung sống với nhau từ năm 2007 đến nay, nhưng không đăng ký kết hôn, nên theo quy định nêu trên pháp luật không công nhận bà H, ông B là vợ chồng.

Thời gian chung sống bà H và ông B có một con chung là Trần D, sinh ngày 25/11/2008 hiện đang sống với bà H. Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi cháu D đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con. Để đảm bảo cuộc sống của cháu D không bị xáo trộn, để cháu phát triển bình thường về tâm sinh lý, đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu D là muốn được sống chung với mẹ, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu được nuôi con của bà H. Hiện bà H có việc làm, thu nhập ổn định, đảm bảo đủ điều kiện nuôi con, nên việc bà H không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H trình bày không có, không có yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Án phí sơ thẩm: Bà Lâm H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn theo quy định tại điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/QBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Khoản 3 Điều 36, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, Điều 15, Điều 53, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ vào điểm a khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/QBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1/ Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ giữa bà Lâm H với ôngTrần B là vợ chồng

- Về con chung: Giao cháu Trần D, sinh ngày 25/11/2008 cho bà Lâm H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu D đủ 18 tuổi. Ông Trần B không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Trần B được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, ông Trần B không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giao dục cháu Trần D của bà Lâm H

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lâm H trình bày không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2/ Về án phí sơ thẩm: Bà Lâm H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền ứng án phí bà Hạnh đã nộp 300.000 đồng, theo Biên lai số 0006377, ngày 30/6/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà H đã nộp xong nghĩa vụ nộp án phí.

3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải Thi hành án có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2017/HNGĐ-ST ngày 30/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:46/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về