Bản án 46/2017/HNGĐ-ST ngày 06/09/2017 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LAI VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 46/2017/HNGĐ-ST NGÀY 06/09/2017 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 06 tháng 9 năm 2017, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Lai Vung xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 114/2017/TLST- HNGĐ, ngày 24/4/2017, về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 50/2017/QĐST-HNGĐ ngày 13/7/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 37/2017/QĐST-HNGĐ ngày 03/8/2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ T, sinh năm: 1990; Địa chỉ: Số nhà 527, ấp B, xã B, huyện C, tỉnh Đ. (có mặt)

2. Bị đơn: Anh Cao Hoàng T, sinh năm: 1988;

Địa chỉ: Số nhà 272, ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Đ. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 10/4/2017, Biên bản về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tại phiên tòa nguyên đơn Nguyễn Thị Mỹ T trình bày:

Khoảng đầu năm 2014, chị Nguyễn Thị Mỹ T và anh Cao Hoàng T quen biết, tìm hiểu nhau được gần một năm và quyết định tiến đến hôn nhân, nên đến cuối tháng 01/2015, gia đình hai bên tiến hành tổ chức lễ cưới. Đến ngày 30/9/2015, chị T với anh T đến Ủy ban nhân dân (UBND) xã T để đăng ký kết hôn theo quy định. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Tuy nhiên, trong quá trình sống chung có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác bên ngoài và bị chị T bắt gặp tại khách sạn vào ngày 30/12/2016. Từ đó, chị T đã bế cháu Thanh H về nhà cha mẹ ruột ở ấp B, xã B, huyện C sinh sống, vợ chồng đã ly thân với nhau từ đầu năm 2017 cho đến nay. Trong thời gian này, tuy anh T có tới lui thăm nom cháu Thanh H, nhưng vợ chồng vẫn không thể hàn gắn lại với nhau được và hiện nay chị T đã không còn tình cảm đối với anh T, mục đích hôn nhân không đạt được và không thể tiếp tục kéo dài. Nay chị Nguyễn Thị Mỹ T yêu cầu được ly hôn với anh Cao Hoàng T. Về con chung: Chị Nguyễn Thị Mỹ T yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi Cao Ngọc Thanh H, sinh ngày 08/11/2015 và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Mỹ T không yêu cầu giải quyết. Tại phiên tòa, chị Tiên thể hiện sự cương quyết yêu cầu được ly hôn với anh T.

Tại phiên tòa anh Cao Hoàng T trình bày: Về tình trạng hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung, anh T thống nhất với lời trình bày của chị T. Tuy nhiên, về hôn nhân anh T cho rằng vẫn còn tình cảm với chị T và anh T thừa nhận là trước đó có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác và bị chị T bắt gặp, nhưng kể từ khi chị T nộp đơn ly hôn đến nay anh T đã không còn qua lại và đã cố gắng khắc phục và hạn chế việc qua lại với bạn bè theo yêu cầu của chị T. Cho nên, anh T không đồng ý ly hôn với chị T. Về con chung: Anh T đồng ý giao cháu Cao Ngọc Thanh H, sinh ngày 08/11/2015 cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng và đồng ý yêu cầu không phải cấp dưỡng cho con. Về tài sản và nợ chung: anh T không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mỹ T và anh Cao Hoàng T được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2015 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện L, tỉnh Đ vào ngày 30/11/2015 theo đúng quy định của pháp luật, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật hôn nhân gia đình nên được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình chung sống giữa chị T và anh T có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do anhTâm có quan hệ tình cảm bất chính với người phụ nữ khác bên ngoài và bị chị T bắt gặp tại khách sạn vào ngày 30/12/2016. Ngoài ra anh T không lo làm ăn chăm sóc cho vợ con, chị T nhiều lần khuyên nhưng anh T vẫn không thay đổi mà vì thê làm cho cuộc sống hôn nhân của vợ chồng ngày càng mâu thuẫn. Chị T với anh T đã sống ly thân với nhau đầu thàng 01 năm 2017 cho đến nay. Trong thời gian này, tuy anh T có tới lui thăm con, nhưng tình cảm vợ chồng giữa chị T với anh T cũng không thể hàn gắn lại được với nhau, cả hai không còn quan tâm với nhau. Mặt khác, từ khi chị T nộp đơn xin ly hôn đến phiên tòa lần thứ nhất, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh T để tiến hành hòa giải, động viên để chị T với anh T có thể hàn gắn, đoàn tụ và chung sống lại với nhau. Ngược lại, anh T lại không chấp hành sự triệu tập của Tòa án, chứng tỏ anh T đã không có ý định muốn hàn gắn lại với chị T. Tuy nhiên, đến phiên tòa lần thứ hai anh T mới có mặt và thừa nhận là có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác và còn tình cảm với chị T là thiếu thực tế. Đồng thời, tại phiên tòa mặc dù Hội đồng xét xử đã động viên cho anh T một cơ hội để vợ chồng về hàn gắn chung sống nhưng chị T lại thể hiện sự cương quyết ly hôn với anh T, chị T đã nhiều lần khuyên và cho anh T rất nhiều cơ hội nhưng anh T vẫn vậy không thay đổi, hơn nữa chị T không thể quên được anh T đã phản bội chị T. Chính vì vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn giữa chị T với anh T là trầm trọng, bởi lẽ hôn nhân xây dựng trên tình cảm xuất phát từ hai phía, còn ở đây chị T đã khẳng định không còn chút tình cảm gì với anh T. Do đó, cho thấy rằng tình cảm vợ chồng giữa anh T và chị T không thể hàn gắn lại được với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được và cuộc sống hôn nhân không thể tiếp tục kéo dài. Cho nên, việc chị Nguyễn Thị Mỹ T xin ly hôn với anh Cao Hoàng T đã thỏa mãn các điều kiện theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Mỹ T là phù hợp với quy định của pháp luật.

 [2] Về con chung: Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị Mỹ T với anh Cao Hoàng T thống nhất giao cháu Cao Ngọc Thanh H, sinh ngày 08/11/2015 cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng. Xét thấy, cháu Cao Ngọc Thanh H, sinh ngày 08/11/2015, tính đến nay cháu Thanh H dưới 36 tháng tuổi. Bên cạnh đó, từ trước đến nay, chị T cũng đã trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng chu đáo cho cháu Thanh H và cháu Thanh H cũng phát triển tốt. Điều này chứng tỏ chị T đủ điều kiện để có thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt cho cháu Thanh H. Đồng thời, sự thỏa thuận của chị T với anh T là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội, nên Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của chị T với anh T là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [3] Về cấp dưỡng:

Lẽ ra, anh Cao Hoàng T là người không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Tuy nhiên, do chị Nguyễn Thị Mỹ T khôngyêu cầu, cho nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

 [4] Về tài sản và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Mỹ T và anh Cao Hoàng T đều không yêu cầu giải quyết, cho nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

 [5] Về án phí:

Chị Nguyễn Thị Mỹ T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Mỹ T được ly hôn với anh Cao Hoàng T.

2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị Mỹ T được quyền tiếp tục nuôi con chunglà Cao Ngọc Thanh H, sinh ngày 08/11/2015, anh Cao Hoàng T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Cao Hoàng T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí và tạm ứng án phí: Chị Nguyễn Thị Mỹ T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Được khấu trừ từ 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 12612, ngày 24/4/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp (Chị Nguyễn Thị Mỹ T đã nộp xong).

4. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày,kể từ ngày tuyên án (06/9/2017).

5. Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 46/2017/HNGĐ-ST ngày 06/09/2017 về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:46/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về