TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 461/2020/HS-PT NGÀY 18/08/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 08 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 145/2020/TLPT-HS ngày 22/04/2020 đối với bị cáo Hồ Thị H:
Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 12/2020/HS-ST ngày 18/03/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ.
- Bị cáo có kháng cáo:
Hồ Thị H; sinh năm 1966 tại quận TN, thành phố Cần Thơ. Nơi cư trú:
438 khu vực Lân Thạnh 2, phường TK, quận TN, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hồ Văn X (chết) và bà: Dương Thị C (chết); có chồng là Nguyễn Văn Q (cùng là bị cáo bị xét xử trong vụ án) và 02 người con (người con lớn sinh năm 1994; người con nhỏ sinh năm 1997):
Tiền án, tiền sự: không:
Bị tạm giữ, tạm giam: 01/08/2019 (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo Hồ Thị H:
Luật sư Võ Thanh Tĩnh, Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ (có mặt).
Người bị hại:
1/Hồ Thị Kim L, sinh năm 1976 (có mặt):
Địa chỉ: 163 Tự Do, khu vực Long Thạnh A, phường TN, quận TN, thành phố cần Thơ.
2/Huỳnh Thành P, sinh năm 1968 (vắng mặt):
Địa chỉ: khu vực Qui Thạnh 2, phường TK, quận TN, thành phố Cần Thơ.
3/Thái Thị Thu H, sinh năm 1962 (vắng mặt):
Địa chỉ: khu vực Tràng Thọ A, phường Trung N, quận TN, thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q là vợ-chồng, bắt đầu kinh doanh lúa, gạo từ năm 2007.
Trong thời gian kinh doanh vừa qua, Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q đã nhận ứng tiền hoặc vay mượn tiền của nhiều người, cho đến khoảng giữa tháng 11/2012 thì không còn khả năng trả nợ và bỏ trốn khỏi địa phương.
Số tiền mà Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q đã chiếm đoạt, được xác định như sau:
Vụ thứ nhất:
Trong khoảng thời gian từ ngày 26/07/2012 đến ngày 26/010/2012, Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q đã nhận tạm ứng từ bà Hồ Thị Kim L (công ty TNHH MTV CB LT Thắng Lợi 2, nay là công ty CP XNK CB LT Thắng Lợi) số tiền 1.950.000.000 đồng. Sau đó, Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q đã giao cho bà Hồ Thị Kim L 2.830 bao gạo (loại 504); 108 bao tấm loại 1; 4 bao tấm loại 2 và 123 bao cám, tổng giá trị là 1.548.320.000 đồng, còn nợ lại số tiền 401.680.000 đồng (bút lục 321).
Ngoài ra, Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q còn bán cho bà Hồ Thị Kim L, gạo và tấm loại 4900, với tổng số tiền là 2.486.985.000 đồng; bà Hồ Thị Kim L đã trả hết số tiền này (bút lục 318-319) nhưng mới nhận được 866 bao gạo tương đương với số tiền 629.240.000 đồng. Vào ngày 13/09/2012, bà Hồ Thị Kim L nhận 452 bao gạo tương đương 226.000.000 đồng tại nhà máy Thạnh Hưng. Như vậy, Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q còn nợ bà Hồ Thị Kim L số tiền 1.631.745.000 đồng.
Cộng chung các khoản tiền nói trên, Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q còn nợ bà Hồ Thị Kim L số tiền là (401.680.000 đồng + 1.631.745.000 đồng) = 2.033.425.000 đồng.
Vụ thứ hai:
Vào ngày 21/09/2012 (6/8/2012 âl), Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q vay của ông Huỳnh Thành P số tiền 170.000.000 đồng, cam kết trả lại trong thời hạn 3 tháng (bút lục 58; 615; 636) nhưng sau đó, Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q bỏ trốn, không trả nợ.
Vụ thứ ba:
Vào khoảng tháng 10/2012, Hồ Thị H vay của bà Thái Thị Thu H số tiền 250.000.000 đồng để mua lúa, cam kết trả lại trong thời hạn 3 tháng (bút lục 615; 711; 713) nhưng sau đó, Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q bỏ trốn, không trả nợ.
Như vậy, tổng số tiền mà Hồ Thị H đã chiếm đoạt trong 03 vụ nói trên là 2.453.425.000 đồng, trong đó, Nguyễn Văn Q đã cùng với Hồ Thị H, chiếm đoạt 2.203.425.000 đồng.
Ngoài những khoản tiền nói trên, Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q còn vay tiền, vàng của nhiều người thân quen, chưa trả lại. Những người này không có yêu cầu gì đối với Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q; nếu sau này các bên có tranh chấp, thì sẽ giải quyết bằng vụ án khác.
Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKS-P1 ngày 11/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ truy tố Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 4 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại bản án Hình sự sơ thẩm số 12/2020/HS-ST ngày 18/03/2020, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ đã quyết định như sau:
Tuyên bố các bị cáo Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Căn cứ Khoản 4 Điều 175; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 17 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015:
Xử phạt Hồ Thị H 17 (mười bảy) năm tù; xử phạt Nguyễn Văn Q 13 (mười ba) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 01/08/2019.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn Q không kháng cáo.
Vào ngày 27/03/2020, bị cáo Hồ Thị H có đơn kháng cáo, xin xem xét lại bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hồ Thị H vẫn giữ nguyên kháng cáo, xin Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm và xin giảm hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến như sau:
-Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, có đủ cơ sở để kết luận rằng bị cáo Hồ Thị H đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 4 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ Khoản 4 Điều 175; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 17 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là đúng người, đúng tội nhưng hình phạt mà Tòa án áp dụng 17 năm tù đối với hành vi chiếm đoạt số tiền 2.453.425.000 đồng, là nghiêm khắc cho bị cáo.
Do đó, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm hình phạt, xử phạt bị cáo từ 14 năm đến 15 năm tù.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày ý kiến như sau:
-Luật sư không đồng ý với tội danh “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” mà các cơ quan tiến hành tố tụng truy tố, xét xử bị cáo Hồ Thị H.
Luật sư cho rằng bản cáo trạng, bản án sơ thẩm chỉ căn cứ vào sự việc bị cáo bỏ trốn để buộc tội mà chưa xem xét, đánh giá những tình tiết khác. Theo Luật sư, do bị cáo nợ tiền của nhiều người, bị chủ nợ truy đuổi nên bị cáo phải bỏ trốn, không phải bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản như cáo trạng và bản án sơ thẩm quy kết. Mặt khác, giao dịch giữa bị cáo và người bị hại Hồ Thị Kim L chỉ còn lại giấy biên nhận ngày 04/11/2012 mà không có tài liệu, chứng cứ kèm theo để minh họa cho giấy biên nhận này. Vì vậy, Luật sư đề nghị thu thập thêm chứng cứ từ những nguồn khác (là những nơi mà bị cáo gửi lúa, gạo để trả lại cho bà Hồ Thị Kim L) để việc quy kết được chính xác.
Với những ý kiến nói trên, Luật sư cho rằng việc điều tra chưa chứng minh rõ ràng hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Luật sư đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại vụ án.
Trong phần đối đáp, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng bị cáo không kháng cáo về tội danh bị truy tố, xét xử. Do đó, việc Luật sư đề nghị xem xét lại tội danh, là vượt quá yêu cầu kháng cáo của bị cáo. Về những vấn đề khác, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên ý kiến như đã trình bày nói trên.
Người bị hại Hồ Thị Kim L có mặt tại phiên tòa, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Hồ Thị H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q là vợ-chồng, bắt đầu kinh doanh lúa, gạo từ năm 2007. Trong thời gian kinh doanh vừa qua, Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q đã nhận ứng tiền trước, trong giao dịch mua-bán lúa, gạo hoặc vay mượn tiền của nhiều người, cho đến khoảng giữa tháng 11/2012 thì bỏ trốn khỏi địa phương mà không trả lại những khoản tiền đã nhận.
Số tiền mà Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q đã chiếm đoạt, được xác định như sau:
Vụ thứ nhất:
Trong khoảng thời gian từ ngày 26/07/2012 đến ngày 26/010/2012, Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q đã nhận tạm ứng trước của bà Hồ Thị Kim L số tiền 1.950.000.000 đồng để mua lúa, rồi xay xát và bán lại gạo, tấm, cám cho bà Hồ Thị Kim L. Trong giao dịch này, Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q đã giao cho bà Hồ Thị Kim L số gạo, tấm và cám trị giá 1.548.320.000 đồng, còn nợ lại số tiền 401.680.000 đồng nhưng không trả.
Cũng trong thời gian nói trên, Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q còn bán cho bà Hồ Thị Kim L, gạo và tấm loại 4900, với tổng số tiền là 2.486.985.000 đồng. Trong giao dịch này, bà Hồ Thị Kim L đã trả hết tiền nhưng mới nhận được 866 bao gạo tương đương với số tiền 629.240.000 đồng và 452 bao gạo tương đương 226.000.000 đồng (tại nhà máy Thạnh Hưng); Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q còn nợ bà Hồ Thị Kim L số tiền 1.631.745.000 đồng nhưng không trả.
Vụ thứ hai:
Vào ngày 21/09/2012 (6/8/2012 âl), Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q vay của ông Huỳnh Thành P số tiền 170.000.000 đồng, cam kết trả lại trong thời hạn 3 tháng, nhưng sau đó, Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q bỏ trốn, không trả nợ.
Vụ thứ ba:
Vào khoảng tháng 10/2012, Hồ Thị H vay của bà Thái Thị Thu H số tiền 250.000.000 đồng để mua lúa, cam kết trả lại trong thời hạn 3 tháng nhưng sau đó, Hồ Thị H cùng Nguyễn Văn Q bỏ trốn, không trả nợ.
[2]Tổng số tiền mà Hồ Thị H, Nguyễn Văn Q chiếm đoạt trong 03 vụ nói trên, là 2.453.425.000 đồng, nhưng Nguyễn Văn Q chỉ cùng với Hồ Thị H chiếm đoạt 2.203.425.000 đồng.
[3]Sau khi Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q bỏ trốn, những người bị hại là bà Hồ Thị Kim L, ông Huỳnh Thành P và bà Thái Thị Thu H có đơn gửi đến cơ quan điều tra, tố cáo hành vi của Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q, yêu cầu cơ quan điều tra giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Vào ngày 10/10/2013, cơ quan Cảnh sát Điều tra-công an thành phố Cần Thơ ra quyết định truy nã và đến tháng 08/2019 thì bắt được Hồ Thị H và Nguyễn Văn Q.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, Hồ Thị H thừa nhận hành vi phạm tội nói trên nhưng cũng đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, đánh giá lại vụ án và xin giảm hình phạt.
Sự nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án. Do đó, Tòa án có căn cứ kết luận rằng Hồ Thị H đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 4 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 với một tình tiết định khung hình phạt (Khoản 4 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định hình phạt từ 12 năm tù cho đến 20 năm tù đối với tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên).
[5] Về tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự:
[5.1]Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
-Bị cáo Hồ Thị H có thái độ khai báo thành khẩn trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, nên được Tòa án áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015:
[5.2]Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
-Bị cáo Hồ Thị H phạm tội từ 02 lần trở lên, bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điểm g Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
[6]Trong vụ án này, bị cáo Hồ Thị H và chồng là Nguyễn Văn Q cùng là bị cáo, cùng bị xét xử về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 4 Điều 175 của Bộ luật hình sự. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xem xét và đánh giá vai trò của bị cáo trong vụ án có đồng phạm, xử phạt bị cáo hình phạt 17 năm tù, là có phần nghiêm khắc. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo Hồ Thị H theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa phúc thẩm (đề nghị xét xử bị cáo từ 14 đến 15 năm tù).
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 345 và Điều 355 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015:
1/Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hồ Thị H; sửa bản án hình sự sơ thẩm số 12/2020/HS-ST ngày 18/03/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ về phần hình sự đối với bị cáo Hồ Thị H, như sau:
- Tuyên bố bị cáo Hồ Thị H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
-Căn cứ Khoản 4 Điều 175; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52; Điều 17 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015:
Xử phạt bị cáo Hồ Thị H 15 (mười lăm) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 01/08/2019.
Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
2/Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3/Về án phí phúc thẩm: bị cáo không phải chịu.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 461/2020/HS-PT ngày 18/08/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 461/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về