Bản án 460/2017/HNGĐ-ST ngày 27/07/2017 về ly hôn giữa chị V và anh T

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 460/2017/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2017 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ V VÀ ANH T

Ngày 27 tháng 7 năm 2017 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 400/2017/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 268/2017/QĐXX-ST ngày 11 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị V, sinh năm 1984; Nơi ĐKTT: Thôn 4, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; Nơi ở hiện nay: Thôn 6, xã S, huyện T, thành phố Hải Phòng; Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lã Văn T, sinh năm 1981; Địa chỉ: Thôn 4, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; Hiện đang cai nghiện tại trung tâm giáo dục - Lao động - Xã hội Hải Phòng; Vắng mặt (Có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 29 tháng 5 năm 2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn Lê Thị V trình bày:

Về hôn nhân: Chị Lê Thị V và anh Lã Văn T kết hôn với nhau do tự nguyện, được tổ chức lễ cưới theo phong tục, được Ủy ban nhân dân xã H, huyện T cấp giấy đăng kí kết hôn số 21 ngày 12 tháng 4 năm 2004. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng lạnh nhạt và sống ly thân; Nguyên nhân mâu thuẫn do anh T mải chơi, nghiện ma túy, xúc phạm và đánh chị nhiều lần. Do tình cảm không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn anh Lã Văn T.

Về con chung: Chị Lê Thị V và anh Lã Văn T có hai con chung Lã Phương A, sinh năm 2004 và Lã Minh Q, sinh năm 2006 hiện đang ở với chị V; Khi ly hôn chị nhận trách nhiệm trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng.

Về tài sản chung và công nợ chung: Chị Lê Thị V và anh Lã Văn T không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Lời khai trong quá trình xét xử bị đơn Lã Văn T trình bày: Thống nhất toàn bộ lời trình bày của chị Lê Thị V về hôn nhân, con chung, tài sản chung, thừa nhận tính hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ chị V đã nộp cho Tòa án nên thuộc trường hợp không phải chứng minh, căn cứ Điều 92 của BLTTDS Tòa án công nhận đó là sự thật. Anh T có quan điểm đồng ý ly hôn chị Vân, để chị V trực tiếp nuôi con Lã Phương A và Lã Minh Q, tự thỏa thuận với chị V về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về chứng cứ do Tòa án thu thập được đều phù hợp với lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn và các tài liệu, chứng cứ nguyên đơn giao nộp.

Bà Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án như sau: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Nguyên đơn và bị đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 28, 92, 147 và 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đìnhNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị V và anh Lã Văn T; Công nhận sự thỏa thuận về con chung: Giao con Lã Phương A, sinh năm 2004 và Lã Minh Q, sinh năm 2006 cho chị Lê Thị V trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; Chị Lê Thị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy:

[1] Về tố tụng: Anh Lã Văn T đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa hợp lệ và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng anh Lã Văn T.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Lê Thị V và anh Lã Văn T là hợp pháp, việc các bên thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn và thống nhất ly hôn là hoàn toàn tự nguyện đã thỏa mãn căn cứ quy định tại Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình nên công nhận việc thuận tình ly hôn giữa chị V và anh T.

[3] Về con chung: Thỏa thuận về nuôi con Lã Phương A và Lã Minh Q giữa chị V và anh T là tự nguyện, phù hợp với nguyện vọng của con, bảo đảm được lợi ích toàn diện của con theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên chấp nhận.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Do chị V và anh T tự thỏa thuận với nhau, chị V không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung và công nợ chung: Chị Lê Thị V và anh Lã Văn T không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Lê Thị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Như vậy, ý kiến của bà Kiểm sát viên đã phát biểu tại phiên tòa về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án là phù hợp pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 92, 147 và 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Các Điều 55, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị V và anh Lã Văn T.

Về nuôi con chung: Công nhận sự thỏa thuận, giao con Lã Phương A, sinh năm 2004 và Lã Minh Q, sinh năm 2006 cho chị Lê Thị V trực tiếp nuôi cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lê Thị V không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét giải quyết.

Về tài sản chung và công nợ chung: Chị V và anh T không có.

Về án phí: Chị Lê Thị V phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị V đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TN, thành phố Hải Phòng biên lai số 0001033 ngày 07 tháng 6 năm 2017; Chị Lê Thị V đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án: Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 460/2017/HNGĐ-ST ngày 27/07/2017 về ly hôn giữa chị V và anh T

Số hiệu:460/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về