Bản án 458/2020/HS-PT ngày 22/09/2020 về tội giết người

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 458/2020/HS-PT NGÀY 22/09/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm, công khai, vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 450a/2020/TLPT-HS ngày 26 tháng 6 năm 2020. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức B, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HS-ST ngày 14/05/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.

1. Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Đức B, sinh ngày 08/4/2001; Nơi cư trú: Số nhà 56, đường TNH, phường TNH, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hoá: 10/12; Con ông Nguyễn Anh T và con bà Phạm Thị Ngọc Y; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là thứ 2; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/01/2019 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. Có mặt.

2. Người bị hại: Anh Trần Công Đ, sinh năm 1988 (đã chết); Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Bà Nguyễn Thị Kim D, sinh năm 1971. Trú tại: Số nhà 283b, Tổ 1, Châu X, phường L, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.(vắng mặt)

3. Trong vụ án còn có: Bị cáo Phạm Tiến H, đại diện người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, kháng nghị.

4. Đối với bị cáo Nguyễn Văn T có kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt. Ngày 18/5/2020 bị cáo rút kháng cáo trước khi mở phiên tòa. Do vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Văn T.

5. Người bào chữa cho bị cáo B: Ông Phạm Văn B1, Luật sư thuộc Văn phòng luật sư Phạm Xuân Anh - Đoàn luật sư tỉnh Bắc Giang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khong đầu tháng 01/2019, anh Trần Công Đ vay Nguyễn Văn T, số tiền 1.200.000 đồng. T nhiều lần đòi tiền nhưng anh Đ chưa có tiền trả. Khoảng 22 giờ 35 phút ngày 20/01/2019, Nguyễn Văn T cùng Nguyễn Đức B và Phạm Tiến H đi đến quán game bắn cá ở Lô 51, 52 đường N, phường H, thành phố Bắc Giang chơi điện tử. Khi đi vào trong quán, T nhìn thấy anh Đ cùng một số người khác. T đi đến chỗ anh Đ đòi số tiền nợ trước đó, anh Đ nói chưa có tiền trả. T túm cổ áo anh Đ lôi ra ngoài cửa quán, anh Đ đấm một cái vào mặt T và rút ra 01 con dao gấp dài 26,5cm ra đâm T, nhưng không trúng. Ngay lúc đó, T lấy từ trong người một chiếc dậy rút bằng sắt dài 63,2cm, B lấy một con dao nhọn dài khoảng 20cm xông vào đánh nhau với anh Đ. Trong lúc T, B và anh Đ xô sát đánh nhau, H nhặt một viên gạch ném anh Đ, nhưng không trúng. Anh Đ bỏ chạy ra hướng ngã tư đường N, T và B chạy đuổi theo, H đi bộ nhặt một viên gạch cầm đi theo sau. Khi anh Đ chạy đến gần ngã 4 đường N giao nhau với đường H, T và B đuổi kịp. T cầm gậy sắt vụt về phía sau anh Đ, làm anh Đ bị ngã. Anh Đ chống cự lại và cầm dao đâm T một nhát trúng vào sườn bên trái. Ngay lúc này, B cầm dao chạy đến đâm Đ một nhát vào lưng và chém một nhát vào trán. Hù chạy đến cầm một viên gạch ném về phía anh Đ, nhưng không trúng. Khi thấy anh Đ bị thương ngồi ôm bụng thì B, T, H quay lại quán game bắn cá. Thấy T bị thương, H đi xe máy đưa T đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang để cấp cứu, rồi bỏ trốn đến ngày 01/02/2019 ra đầu thú. B nhờ anh Trịnh Hoàng A đưa đến khu vực Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang, thuê xe ô tô taxi ra Hà Nội bỏ trốn, đến ngày 29/01/2019 ra đầu thú. Anh Đ bị thương được anh Nguyễn Minh Đ và Nguyễn Ngọc H2 đi xe ô tô đưa đi cấp cứu, nhưng anh Đ đã bị chết. Trên đường đưa anh Đ đi cấp cứu, anh Đ1 lấy con dao anh Đ đang cầm trên tay để vào hộc cần số xe ô tô. Khi biết tin anh Đ bị chết, T nhờ anh Ngô Duy C gọi xe ô tô taxi đưa đi điều trị vết thương. Trên đường đi, T đưa cho anh C chiếc gậy sắt bảo mang về nhà. Sau đó, T bị bắt giữ.

Cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường: Nơi xảy ra sự việc tại đường N và tại quán trò chơi bắn cá ở lô 51- 52 đường N, phường H, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang...

Khám nghiệm tử thi Trần Công Đ. Khám ngoài: Tử thi dài 1,79m, thể tạng bình thường. Tóc màu đen, cắt trung bình. Tử thi đang trong giai đoạn mềm lạnh. Tử thi ở trạng thái cởi trần, cổ được Colier, mặc quần bò màu đen, hai chân đi giầy màu đen, tất màu trắng. Bên trong mặc quần lót màu đen. Kiểm tra chiếc quần bò màu đen thấy bám dính dấu vết màu nâu đỏ (nghi máu); Hai mắt nhắm tự nhiên, hai lỗ tai khô, lỗ mũi có máu chảy từ trong ra, miệng hé mở, lưỡng trong cung răng. Vùng trán phải cách đuôi ngoài mắt phải 1,5cm, cách đỉnh vành tai phải 08cm có vết thương rách da, bờ mép sắc gọn, hình chữ "L", cạnh trên dài 2,8cm, cạnh dưới dài 06cm, qua vết thương có lỗ thủng, sâu sát xương kích thước (0,7x 0,5)cm; Mặt gan vị trí ô mô cá bàn tay phải có diện sây sát da, bầm tím, kích thước (05x 03)cm. Mặt mu đốt II ngón số 3 bàn tay phải có vết sây sát da, kích thước (0,5x 0,5)cm. Mặt trước gối phải có diện sây sát da, kích thước (03x 0,7)cm. Mặt trước ngoài 1/3 trên cánh tay trái có diện sây sát, rách da, kích thước (2,2x1,6)cm. Mặt sau ngoài 1/3 dưới cẳng tay trái có diện sây sát da, kích thước (5,5x 2,1)cm. Mặt trước gối trái có diện sây sát da, kích thước (4,5x 2,7)cm; Vùng lưng phải cách đỉnh hõm nách phải 7,2cm và cách đường giữa 11,7cm có vết thương rách da, bờ mép sắc gọn hướng từ sau ra trước, sâu thấu trong, kích thước (3,7x 1,8)cm, khép miệng vết thương dài 4,2cm; Giải phẫu tử thi: Phẫu tích vết thương vùng trán phải thấy: Không tụ máu tổ chức cơ vùng trán phải. Vết thương vùng trán phải qua da, tổ chức dưới da, cơ sâu sát xương. Xương hộp sọ vùng trán phải trắng nhẵn không phát hiện tổn thương. Khoang lồng ngực phải có máu đông lẫn không đông, khoang lồng ngực trái khô. Vết thương vùng lưng phải qua da, tổ chức dưới da, cơ thấu qua khoang liên sườn 4;5, thấu nhu mô thùy giữa phổi phải đến rốn phổi phải làm đứt đôi động, tĩnh mạch phổi phải. Phẫu tích vùng cổ sau thấy: Không tụ máu tổ chức dưới da, cơ vùng cổ sau. Kiểm tra các đốt sống cổ thấy không trật, gẫy.

Quá trình khám nghiệm, thu giữ dấu vết nghi máu, các mảnh gạch vỡ tại hiện trường; thu chiếc quần bò màu đen và mẫu máu tử thi; thu giữ 01 con dao nhọn bằng kim loại màu đen dài 26,5cm của anh Đ do anh Nguyễn Mạnh Tr giao nộp; thu 01 chiếc áo phông dài tay của Nguyễn Văn T; thu 01 áo phông trắng và 01 chiếc áo khoác màu xanh của nạn nhân Đ; 01 chiếc gậy rút do anh Ngô Duy C giao nộp.

Kết luận giám định số 201A/KL-KTHS ngày 21/2/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang, kết luận: Nguyên nhân chết của Trần Công Đ: Sốc mất máu cấp do vết thương thấu phổi, đứt đôi động-tỉnh mạch phổi. Cơ chế hình thành dấu vết, thương tích: Vết thương rách da vùng trán phải và vùng lưng phải nạn nhân Đ hình thành do vật nhọn, có lưỡi sắc tác động tạo nên. Các tổn thương sây sát da, bầm tím hình thành do tiếp xúc với vật tày, bề mặt không nhẵn tạo nên.

Kết luận giám định bổ sung số 1412/KL-KTHS ngày 05/9/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang, kết luận: Việc bị can B cầm con dao (có đặc điểm như trong quyết định trưng cầu giám định) đâm và chém anh Đ (với tư thế, khoảng cách nêu trong yêu cầu giám định) có thể tạo được vết thương trên lưng phải và trán phải của anh Đ như mô tả trong biên bản khám nghiệm tử thi. Kết luận giám định số 304 /KL-KTHS ngày 12/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang, kết luận: Mẫu máu tử thi Nguyễn Văn T thuộc nhóm máu O. Mẫu máu tử thi Trần Công Đ thuộc nhóm máu B. Trên chiếc quần dài màu đen đựng trong hộp bìa cát tông ký hiệu “Mẫu khám nghiệm tử thi, 01 quần bò dài màu đen, mẫu máu tử thi” có máu người, nhóm máu B. Trên các mảnh gạch vỡ thu tại hiện trường không phát hiện dấu vết máu. Trên áo phông màu trắng dài tay đựng trong hộp bìa ký hiệu “Áo đối tượng T” có máu người, nhóm máu O. Trên áo phông trắng cộc tay và chiếc áo khoác màu xanh dài tay đựng trong hộp bìa ký hiệu “Áo nạn nhân” có máu người, nhóm máu B. Trên con dao nhọn bằng kim loại màu đen, loại dao gấp, tổng chiều dài 26,5cm, lưỡi dao bằng kim loại màu đen dài 12cm, vị trí rộng nhất 2cm có máu người, nhóm máu B. Mẫu thu tại hiện trường đựng trong túi ký hiệu “Dấu vết màu nâu đỏ hiện trường xảy ra vụ án” có máu người, nhóm máu B.

Kết luận giám định số 254/KL-KTHS ngày 19/2/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Trên mẫu vật gửi giám định (Con dao nhọn bằng kim loại màu đen, loại dao gấp, tổng chiều dài 26,5cm, lưỡi dao bằng kim loại màu đen dài 12cm, vị trí rộng nhất 2cm) không tìm thấy dấu vết đường vân.

Kết luận giám định số 140/KL-KTHS ngày 29/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Trên chiếc gậy gửi giám định có máu người, không xác định được nhóm máu do dấu vết máu thu được quá ít.

Cơ quan điều tra đã thu giữ dữ liệu đầu thu các Camera tại quán game bắn cá và của gia đình chị Phạm Thị H3, Nguyễn Thị L tại khu vực hiện trường xảy ra vụ án. Kết quả kiểm tra dữ liệu Camera xác định từ 22 giờ 36 phút 31 giây đến 22 giờ 42 phút 09 giây ngày 20/01/2019 có các hình ảnh B, T, H vào quán, hình ảnh T túm cổ áo anh Đ lôi ra ngoài cửa quán; hình ảnh T cầm gậy, B cầm dao, H nhặt gạch tại đường lao vào đánh anh Đ; hình ảnh T cầm gậy lao vào đánh anh Đ, hình ảnh anh Đ cầm dao đâm T làm T bị ngã; hình ảnh B cầm dao đâm và chém anh Đ còn H cầm gạch ném về phía anh Đ; hình ảnh anh Đ cúi gập người còn B, H, T rời khỏi hiện trường, hình ảnh anh Đ được đưa lên xe ô tô đi cấp cứu.

Trong quá trình điều tra, các bị cáo B, T, H khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên. Cơ quan điều tra cho bị can T nhận dạng chiếc áo phông dài tay màu trắng, chiếc gậy rút đã thu giữ. Kết quả T nhận đúng chiếc áo phông dài tay màu trắng, chiếc gậy rút do Cơ quan điều tra thu giữ là chiếc áo, chiếc gậy mà T mặc và sử dụng đánh anh Đ. Cơ quan điều tra cho bị can B thực nghiệm động tác dùng dao đâm vào lưng và chém vào trán anh Đ. Kết quả B thực hiện thuần thục các tư thế, động tác phù hợp lời khai bị can.

Đi với thương tích của Nguyễn Văn T: Giấy chứng nhận thương tích ban đầu ngày 04/9/2019 của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang xác định: Nguyễn Văn T vào viện lúc 02 giờ 30 phút ngày 21/01/2019. Tình trạng thương tích lúc vào viện: Vết thương nách trái kích thước (2,2x2)cm, sâu đứt các cơ vùng nách trái độ sâu 03cm, không thấu phổi. (bút lục 264). Kết quả điều tra xác định T bị anh Đ dùng dao đâm gây thương tích. Tuy nhiên do anh Đ đã chết nên T từ chối giám định và không có đề nghị gì.

Về con dao mà bị can B sử dụng đâm, chém anh Đ: Theo B khai trên đường thuê xe ô tô taxi ra Hà Nội bỏ trốn, khi đi đến cầu Như Nguyệt thuộc địa phận tỉnh Bắc Ninh, B xuống xe ném con dao này xuống sông nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2020/HS-ST ngày 14/5/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức B phạm tội “Giết người”. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51;

Điều 17; Điều 58; Điều 38; Điều 91; Điều 101 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức B 15 (mười lăm) năm tù, thời hạn tính từ ngày 29/01/2019. Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn T và bị cáo Phạm Tiến H, quyết định về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 22/5/2020, bị cáo Nguyễn Đức B có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Đức B giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, thành khẩn nhận tội, ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình, bị cáo tác động gia đình bồi thường một phần cho gia đình bị hại, gia đình có công với đất nước, phạm tội trong độ tuổi thành niên nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có cơ hội để cải tạo thành người công dân tốt.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, vai trò và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của bị cáo, kết luận: Bị cáo Nguyễn Đức B bị Viện kiểm sát truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt về tội “Giết người”, theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Về hình phạt, cấp sơ thẩm không áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, tại cấp phúc thẩm, ngoài việc bị cáo tiếp tục tác động gia đình bồi thường thêm số tiền 20 triệu đồng, gia đình có công với cách mạng, nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo và sửa bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức B với mức hình phạt là 13 năm tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đức B: Việc bị cáo bị xử phạt về tội “Giết người”, theo đim n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình khó khăn, tiếp tục bồi thường khắc phục hậu quả, thành khẩn, phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, tuổi đời còn trẻ suy nghĩ còn bồng bột, gia đình có công với đất nước, đề nghị giảm một phần hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo thành người công dân tốt cho xã hội.

Ông Nguyễn Anh T (bố bị cáo B) trình bày: Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho gia đình người bị hại, gia đình có có công với cách mạng. Đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Đức B.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: c cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng quy định Bộ luật Tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của bị cáo gửi trong thời hạn luật định, được cấp phúc thẩm chấp nhận.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ti phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Đức B thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết; Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cấp sơ; phù hợp với lời khai của các bị cáo Nguyễn Văn T, Phạm Tiến H; Phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám ngiệm tử thi, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận. Cấp phúc thẩm thống nhất với kết luận của bản án sơ thẩm: Khoảng 22 giờ 35 phút ngày 20/01/2019, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đức B và Phạm Tiến H đến quán game bắn cá ở lô 51, 52 đường N, phường H, thành phố Bắc Giang chơi điện tử thì gặp anh Trần Công Đ chơi ở trong quán. Do trước đó anh Đ nợ T 1.200.000 đồng nhưng chưa trả, nên T túm cổ áo anh Đ lôi ra ngoài, dẫn đến hai người xảy ra xô sát đánh nhau. Sau đó, B, T, H cùng tham gia đánh anh Đ (T lấy 01 chiếc dậy rút bằng sắt; B lấy 01 con dao nhọn dài khoảng 20cm để đánh anh Đ; H nhặt 01 viên gạch ném anh Đ nhưng không trúng). Anh Đ bỏ chạy ra hướng ngã tư đường N. T và B chạy đuổi theo, H nhặt 01 viên gạch đi bộ theo sau. Khi đuổi kịp anh Đ, T cầm gậy sắt vụt về phía sau anh Đ làm anh Đ bị ngã. Anh Đ cầm dao đâm 01 nhát vào nách bên trái T. Ngay lúc đó, B cầm dao chạy đến đâm Đ 01 nhát vào lưng và chém 01 nhát vào trán, còn H cầm 01 viên gạch chạy đến ném anh Đ nhưng không trúng. Khi thấy anh Đ bị thương ngồi ôm bụng thì B, T, H đi khỏi hiện trường. Hậu quả làm anh Đ bị chết do sốc mất máu cấp do vết thương thấu phổi, đứt đôi động-tỉnh mạch phổi. Với hành vi nêu trên, các bị cáo Nguyễn Đức B, Nguyễn Văn T, Phạm Tiến H bị xử về tội: “Giết người”, với tình tiết định khung hình phạt: “Có tính chất côn đồ”, theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã xét xử các bị cáo theo tội danh, điểm, khoản, điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong vụ án này, bị cáo Phạm Tiến H bị xử phạt 08(tám) năm tù không có kháng cáo, kháng nghị; bị cáo Nguyễn Văn T bị xử phạt 15(mười lăm) năm tù, có kháng cáo nhưng sau đó rút đơn kháng cáo, ngày 04/9/2020 Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Do vậy, bản án sơ thẩm đã có hiệu lực đối với Nguyễn Văn T và Phạm Tiến H.

[3]. Về tính chất hành vi phạm tội: Bị cáo Nguyễn Đức B là người có đủ nhận thức về việc làm của mình là vi phạm pháp luật, hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ một nguyên cớ nhỏ khi T đòi tiền anh Đ, nhưng anh Đ khất nợ không có tiền trả, dẫn đến T, B, H xô sát đánh nhau với anh Đ. Khi anh Đ bỏ chạy đến gần ngã 4 đường N giao nhau với đường H, T và B đuổi kịp. T cầm gậy sắt vụt về phía sau anh Đ, làm anh Đ bị ngã. Anh Đ chống cự lại và cầm dao đâm T một nhát trúng vào sườn bên trái. Ngay lúc này, B cầm dao chạy đến đâm Đ một nhát vào lưng và chém một nhát vào trán, H chạy đến cầm một viên gạch ném về phía anh Đ, nhưng không trúng. Hậu quả anh Đ bị chết sau đó. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, coi thường tính mạng của người khác, gây hoang mang lo lắng trong dư luận quần chúng nhân dân, phải bị xử phạt với mức hình phạt thỏa đáng. Mặc dù, sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nhân thân chưa có tiền án tiền sự, đầu thú, bị cáo tác động gia đình bồi thường cho gia đình bị hại 20 triệu đồng, khi thực hiện phạm tội là người chưa thành niên(17 tuổi 9 tháng 12 ngày). Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự (tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai đã tác động gia đình bồi thường, phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, lẽ ra cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự); đồng thời áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội dưới 18 tuổi quy định tại Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo. Trên cơ sở đánh giá khách quan, đầy đủ các chứng cứ của vụ án, tính chất, hành vi, mức độ, vai trò, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân và với những tình tiết giảm nhẹ được áp dụng, xử phạt bị cáo mức hình phạt 15 năm tù là phù hợp, nhằm có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[4]. Xét kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt của Nguyễn Đức B: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo trình bày ân hận về hành vi phạm tội của mình; khi thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức pháp luật còn hạn chế; từ trước đến nay không vi phạm pháp luật, nhân thân không có tiền án, tiền sự; có cụ nội là Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình có hai ông là Liệt sĩ được chính quyền địa phương xác nhận; tác động gia đình tiếp tục bồi thường thêm số tiền 20 triệu đồng để khắc phục hậu quả. Xét thấy, ngoài tình tiết giảm nhẹ đã được cấp sơ thẩm áp dụng, bị cáo được áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới là tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự. Do vậy, cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm và giảm một phần hình phạt cho bị cáo Nguyễn Đức B, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Vì vậy, quan điểm đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo là có cơ sở, được chấp nhận.

[5]. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn cứ, lập luận và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở, được chấp nhận.

[6]. Về Quyết định khác: Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7]. Về án phí: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận, nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức B.

2. Sửa Bản án Hình sự sơ thẩm số 09/2020/HS-ST ngày 14/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, đối với bị cáo Nguyễn Đức B.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58; Điều 91; Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức B 13 (mười ba) năm tù, về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/01/2019.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đức B không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 458/2020/HS-PT ngày 22/09/2020 về tội giết người

Số hiệu:458/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về