Bản án 452/2019/HSST ngày 28/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 452/2019/HSST NGÀY 28/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 8 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 455/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 467/2019/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 8 năm 2019, đối với bị cáo:

1. Nguyễn Thị Th, tên gọi khác: không. Sinh ngày 02/3/1994. Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Tô 37, phương PĐP, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn M, đã chết và bà Nguyễn Thị X; Chồng là La Công D, có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân: Tại Bản án số 39 /2019/HSST ngày 21/8/2019 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 16 năm 03 thángtù giam về các tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2019 đến nay), có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Văn T, tên gọi khác: không. Sinh ngày 27/01/2001. Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Tô 40, phương PĐP, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Quốc Q và bà Nguyễn Thị Th; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2019 đến nay), có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Tiến Đ, tên gọi khác: không. Sinh ngày 07/6/1993. Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Tô 13, phương HVT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Đ và bà Tiêt Thị Kh ; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/4/2019 đến nay), có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến:

2. Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1957. (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Tổ 02, P. TD, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên

3. Bà Đoàn Thị N, sinh năm 1956. (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Tổ 04, P. TD, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 50 phút ngày 12/4/2019, tại khu vực Chợ TD thuộc tô 4, phường TD, thành phố TN, tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện 01 đôi nam nữ có biểu hiện nghi liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra thì người nam giới khai tên là Nguyễn Văn T, người phụ nữ khai tên là Nguyễn Thị Th. Quá trình kiểm tra người Nguyễn Văn T không phát hiện thu giữ gì, kiểm tra người Nguyễn Thị Th phát hiện trong ống quần bên trái Th đang mặc có 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 10 viên nén màu hồng, Th khai là ma túy tổng hợp loại hồng phiến. Nguồn gốc số ma túy là do Th gọi điện thoại đặt mua của Nguyễn Tiến Đ với giá 1.000.000đ vào hồi 10 giờ cùng ngày. Sau khi Đ và Th giao dịch xong, Đ bảo T cầm xuống đưa cho Th, Th nhận gói ma túy do T đưa cất giấu vào ống quần bên trái rồi cùng T đi ra khu vực tổ 4, phường TD, thành phố TN để bán cho khách thì bị tổ công tác của Công an thành phố Thái Nguyên kiểm tra phát hiện lâp biên ban băt ngươi pham tôi qua tang va thu giư T bộ vât chưng. Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ của Th 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen có số IMEI 1: 3558 1209 2693 760, số IMEI 2: 3558 1309 2693 768, của T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu ghi xám có số IMEI: 3520 7306 26 71 939.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên tiến hành cân kiểm tra số viên nén màu hồng thu giữ trên người Th có khối lượng là 1,024gam và lấy toàn bộ cho vào bì niêm phong ký hiêu T2 gưi giam đinh.

Tại Kết luận giám định số 647/KL-PC09 ngày 19/4/2019của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: 10 viên nén màu hồng trong mẫu T2 gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine , có khối lượng là 1,024 gam.

Quá trình điều tra ngày 13/4/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên thi hành Lệnh khám xét nơi ở của Nguyễn Tiến Đ ở tổ 13, phường HVT, thành phố TN, phát hiện và thu giữ của Đ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng bạc có số IMEI 354 392 067 388929 màn hình đã vỡ, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng có số IMEI 013790008606361.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Tiến Đ, Nguyễn Thị Th và Nguyễn Văn T khai nhận: Khoảng 09 giờ ngày 12/4/2019 Th đang ở tại phòng trọ thuộc tổ 4, phường TD, thành phố TN thì có 01 nam thanh niên gọi điện thoại đặt mua 10 viên ma túy loại “Hồng phiến” với giá 1.000.000đ, Th nhất trí và bảo nam thanh niên chờ. Sau khi nói chuyện điện thoại với người nam thanh niên, Th gọi điện thoại đặt mua của Nguyễn Tiến Đ 10 viên ma túy loại “hồng phiến” với giá 1.000.000đ và bảo Đ khi nào khách lấy thì Đ hoặc T cầm xuống cho Th. Đến khoảng 10 giờ Đ gọi điện thoại bảo T mang 10 viên ma túy loại “hồng phiến” đựng trong túi ni lon màu trắng xuống đưa cho Th và cầm 1.000.000đ về đưa cho Đ. Khoảng 10 giờ 40 phút cùng ngày T cầm gói ma túy xuống khu vực tổ 4, phường TD, thành phố TN đưa cho Th, Th nhận gói ma túy cất giấu vào trong ống quần phía bên trái thì bị tổ công tác của Công an thành phố Thái Nguyên kiểm tra phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ T bộ vật chứng.

Quá trình điều tra các bị cáo còn khai nhận trước đó khoảng 19 giờ ngày 11/4/2019 có 01 nam thanh niên không rõ lai lịch địa chỉ gọi điện thoại đặt mua của Th 4 viên ma túy tổng hợp loại “hồng phiến” và 0,5 gam ma túy tổng hợp dạng đá với giá 1.200.000đ, Th nhất trí rồi gọi điện thoại đặt mua của Đ 4 viên ma túy tổng hợp loại “hồng phiến” với giá 500.000đ, Đ nhất trí rồi lấy 4 viên ma túy loại “hồng phiền” gói vào túi ni lon màu trắng và đưa cho T mang xuống bán cho Th. Khoảng 22 giờ cùng ngày T cầm gói ma túy xuống khu vực chợ TD, thuộc phường TD đưa cho Th. Sau khi nhận gói ma túy Th nhờ T đưa đến khu vực tổ 4, phường TD, thành phố TN, Th bán 4 viên ma túy tổng hợp loại “hồng phiến” và 0,5 gam ma túy tổng hợp dạng đá cho người nam giới được 1.200.000đ. Sau khi nhận tiền Th đưa cho T 500.000đ, T cầm về và đưa cho Đ.

Đến sáng ngày 12/4/2019 Đ trả công cho T 100.000đ.

Nguồn gốc số ma túy bán cho Th là do Đ mua của người nam giới không rõ lai lịch địa chỉ ở khu vực phường TL, thành phố TN vào buổi sáng ngày 11/4/2019 với giá 800.000đ được 15 viên ma túy tổng hợp loại “hồng phiến”. Sau khi mua được ma túy, Đ sử dụng 1 viên số còn lại Đ 2 lần bảo T mang bán cho Th.

Lời khai nhận của Nguyễn Tiến Đ, Nguyễn Thị Th và Nguyễn Văn T phù hợp với nhau và phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định.

Tại bản cáo trạng số 454/CT-VKSNDTP, ngày 06/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Thị Th, Nguyễn Văn T và Nguyễn Tiến Đ về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”,được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo Nguyễn Thị Th, Nguyễn Văn T và Nguyễn Tiến Đ khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và như bản cáo trạng đã mô tả. Các bị cáo thừa nhận việc truy tố là đúng, không oan, sai.

- Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Th, Nguyễn Văn T và Nguyễn Tiến Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51BLHS; áp dụng thêm Điều 17; Điều 58 đối với Đ và T, xử phạt các bị cáo Nguyễn Thị Th,Nguyễn Văn T và Nguyễn Tiến Đ từ 08 năm đến 09 năm tù giam. Phạt bổ sung mỗi bị cáo từ 5 triệu đến 7 triệu đồng.

+ Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy : 01 bì niêm phong kí hiệu T2 (bên trong chứa ma túy);

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen có số IMEI 1: 3558 1209 2693 760, số IMEI 2: 3558 1309 2693 768 trong máy gắn 01 sim Viettel của Th; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu ghi xám có số IMEI: 3520 7306 26 71 939 trong máy gắn 01 sim Vinaphone của T; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng bạc có số IMEI 354 392 067 388 929 màn hình đã vỡ trong máy gắn 01 sim Viettel của Đ.

- Tạm giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng có số IMEI 013 790 008 606 361, trong máy gắn 01 sim Viettel của Đ.

- Truy thu của T 100.000đ; của Đ 400.000đ; của Th 1.000.000đ tiền thu lời bất chính.

+Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Trong phần tranh luận các bị cáo không tranh luận; trong lời nói sau cùng các bị cáo nhận thức thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo Th xin được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật, giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về chăm sóc mẹ và con nhỏ; bị cáo Đ và T xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng:Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc giải quyết.

[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của các bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 10 giờ 50 phút ngày 12/4/2019, tại khu vực Chợ TD thuộc tô 4, phường TD, thành phố TN, Nguyễn Thị Th và Nguyễn Văn T đang có hành vi mua bán 1,024 gam Methamphetamine thì bị tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Nguồn gốc số ma túy là do Th đặt mua của Nguyễn Tiến Đ với giá 1.000.000đ, sau khi giao dịch xong Đ bảo T mang số ma túy xuống giao cho Th thì bị phát hiện bắt giữ. Ngoài ra trong quá trình điều tra các bị cáo còn khai nhận vào khoảng 22 giờ ngày 11/4/2019 Đ và T còn bán cho Th 4 viên ma túy tổng hợp loại “hồng phiến” với giá 500.000đ, sau đó Th bán lại cho 01 nam thanh niên không rõ lai lịch địa chỉ với giá 1.200.000đ kèm theo 0,5 gam ma túy tổng hợp dạng đá của Th.

Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Thị Th và Nguyễn Văn T, Nguyễn Tiến Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS là có căn cứ.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an T xã hội. Hành vi của các bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo thấy: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo Th là người có nhân thân xấu,ngày 21/8/2019 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 16 năm 03 tháng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩnkhai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS.

Về vai trò đồng phạm của các bị cáo: Trong vụ án này bị cáo Đ có vai trò là chủ mưu thực hiện tội phạm, bị cáo T là đồng phạm với vai trò giúp sức tích cực và trực tiếp thực hiện tội phạm, do hám lợi nên khi được Đ nhờ, T đã hai lần mang ma túy của Đ bán cho Th. Do đó, bị cáo Đ phải chịu mức hình phạt cao hơn T. Bị cáo Th không có vai trò đồng phạm với Đ và T mà là người giao dịch với Đ để mua ma túy vào các ngày 11 và 12/4/2019 rồi nhận từ T sau đó bán lại kiếm lời. Nhưng do bị cáo là người có nhân thân xấu nên phải chịu mức hình phạt cao hơn T và tương đương với bị cáo Đ.

Các bị cáo phạm tội với mục đích vụ lợi nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo tại khoản 5 Điều 251 BLHS đối với các bị cáo.

[4]. Vật chứng vụ án: 01 bì niêm phong kí hiệu T2 (bên trong chứa ma túy) cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen có số IMEI 1: 3558 1209 2693 760, số IMEI 2: 3558 1309 2693 768 trong máy gắn 01 sim Viettel của Th; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu ghi xám có số IMEI: 3520 7306 26 71 939 trong máy gắn 01 sim Vinaphone của T; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng bạc có số IMEI 354 392 067 388 929 màn hình đã vỡ trong máy gắn 01 sim Viettel của Đ. Đây là những tài sản các bị cáo sử dụng để liên lạc thực hiện tội phạm nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Riêng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng có số IMEI 013 790 008 606 361, trong máy gắn 01 sim Viettel của Đ không liên quan đến vụ án nên tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

Đối với số tiền các bị cáo thu lời bất chính từ việc bán ma túy, của Th là 700.000đ; của T là 100.000đ; của Đ là 400.000đ cần truy thu sung quỹ nhà nước.

[5]. Về các vấn đề khác: Các bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Về nguồn gốc số Methamphetamine Đ khai mua của người nam giới không rõ lai lịch địa chỉ ở phường TL, thành phố TN. Nguồn gốc 0,5 gam ma túy đá Th khai mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực chợ Đ Qu vào ngày 10/1/2019. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch của những người này nên Cơ quan điều tra không co cơ sơ làm rõ xử lý.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:Các bị cáo Nguyễn Thị Th, Nguyễn Văn T và Nguyễn Tiến Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy

1. Về hình phạt:

1.1. Căn cứ vào điểm b khoản 2, 5 Điều 251 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 BLHS xử phạt: Nguyễn Tiến Đ 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 13/4/2019. Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ (Năm triệu đồng) sung quỹ nhà nước.

1.2.Căn cứ vào điểm b khoản 2, 5 Điều 251 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt: Nguyễn Thị Th 08 (Tám) năm 06 (Sáu) thángtù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 12/4/2019. Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ (Năm triệu đồng) sung quỹ nhà nước.

1.3. Căn cứ vào điểm b khoản 2, 5 Điều 251 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 BLHS xử phạt: Nguyễn Văn T 07 (bẩy) năm 06 (Sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày12/4/2019. Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ (Năm triệu đồng) sung quỹ nhà nước.

Căn cứ Điều 329 BLTTHS tiếp tục tạm giam các bị cáo Th, Đ, T45 ngày để đảm bảo thi hành án.

2.Vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong kí hiệu T2 (bên trong chứa ma túy)

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen có số IMEI 1: 3558 1209 2693 760, số IMEI 2: 3558 1309 2693 768, kèm theo 01 sim Viettel của Th;

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu ghi xám có số IMEI: 3520 7306 26 71 939,kèm theo 01 sim Vinaphone của T;

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone vỏ màu trắng bạc có số IMEI 354 392 067 388 929 màn hình đã vỡ,kèm theo 01 sim Viettel của Đ.

+ Tạm giữcủa Đ: 01điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng có số IMEI 013 790 008 606 361, kèm theo 01 sim Viettel để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số494ngày 22/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

+ Truy thu sung quỹ nhà nước tiền thu lời bất chính: Bị cáo Th là 700.000đ (bẩy trăm nghìn đồng); của bị cáo T là 100.000đ (Một trăm nghìn đồng); của bị cáo Đ là 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng).

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí tòa án: Buộc mỗi bị cáo Th, Đ, Tphải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 452/2019/HSST ngày 28/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:452/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về