Bản án 45/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội buôn bán, vận chuyển và tàng trữ hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 45/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI BUÔN BÁN, VẬN CHUYỂN VÀ TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số40/2021/TLST- HS ngày 15/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2021/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Duy T; Giới tính Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 26/3/1985 tại Nghi Lộc, Nghệ An. Chỗ ở hiện nay: xóm 2, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Nguyễn Duy Đ và bà Hoàng Thị K. Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị N và có 03 con. Tiền sự, tiền án: không. Bị tạm giữ từ ngày 23/01/2021 đến ngày 28/01/2021và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú". Có mặt.

2. Nguyễn Văn G; Giới tính Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 09/8/2003 tại Nghi Lộc, Nghệ An. Chỗ ở hiện nay: xóm 3, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: không; Trình độ hoạc vấn: 11/12; Con ông Nguyễn Văn Đ và bà Trần Thị H. Vợ con: Chưa có. Tiền sự, tiền án: không. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú". Có mặt.

3. Phạm Xuân T; Giới tính Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 20/4/2003 tại Thành phố Vinh, Nghệ An. Chỗ ở hiện nay: xóm 9, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không.

Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Phạm Xuân D và bà Phạm Thị H. Vợ con: Chưa có. Tiền sự, tiền án: không. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú". Có mặt.

Người đại diện theo pháp luật của bị cáo Nguyễn Văn G:

Bà: Trần Thị H và ông Nguyễn Văn Đ Trú tại: xóm 3, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An. Bà H Có mặt. Người đại diện theo pháp luật của bị cáo Phạm Xuân T: Ông Phạm Xuân D và bà Phạm Thị H Trú tại: xóm 9, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Ông D Có mặt.

Đại diện trường Trung cấp Kinh tế Kĩ thuật huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An:

Ông Lương Anh T - Vắng mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Phạm Xuân T: ông Thái Bình D- Luật sư văn phòng Luật sư Lê Trần- đoàn Luật sư Nghệ An. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn G, Phạm Xuân T: bà Trần Thị Thu H-Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp Pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Xuân T và Nguyễn Văn G cùng làm việc với nhau tại xưởng sản xuất nhựa, địa chỉ tại xóm 1, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An. Trong quá trình làm việc, T hỏi, nhờ G mua giúp pháo để sử dụng trong dịp tết và hứa mời G ăn uống, G đồng ý. Ngày 21/01/2021, G đã sử dụng số di động “0332.232.505” gọi vào số “0398.616.278” của Nguyễn Duy T để hỏi mua pháo. Do đang sẵn có 10 cối pháo loại 36 quả mua trước đó của một người không quen biết với giá 850.000 đồng/cối nên T đã đồng ý bán lại cho G với giá 1.000.000 đồng/cối để kiếm lời. G trao đổi lại với T thì T đồng ý đặt mua 08 cối pháo và đưa cho G 8.000.000 đồng. Lúc 12 giờ ngày 22/01/2021, G đi ra quán Game mượn xe mô tô của bạn (Không nhớ, không xác định được tên tuổi, địa chỉ và đặc điểm xe cụ thể) - liên lạc và đi đến nhà của Nguyễn Duy T ở xóm 2, xã N, huyện N mua của T 08 cối pháo với giá 8.000.000 đồng và dùng xe mô tô chở 08 cối pháo từ nhà T về xưởng sản xuất nhựa ở xóm 1, xã N, huyện N và giao số pháo này lại cho T cất giấu tại xưởng. Đến 18 giờ 45 phút ngày 22/01/2021, T đưa số pháo trên về nhà mình ở xóm 9, xã N, thành phố V để cất giấu. Khi đi đến khu vực khối 4, thị trấn Q, huyện N, tỉnh Nghệ An thì bị Tổ công tác Công an huyện Nghi Lộc tuần tra phát hiện bắt giữ.

Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, biết tin Phạm Xuân T bị bắt nên Nguyễn Văn G, Nguyễn Duy T đã lần lượt đến Công an huyện Nghi Lộc để đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội, T giao nộp 02 cối pháo loại 36 quả/cối.

Ngày 25/01/2021, Cơ quan điều tra đã thành lập Hội đồng mở niêm phong, xác định trọng lượng và lấy mẫu giám định đối với số vật chứng thu được là 08 khối hình hộp chữ nhật thu giữ của Phạm Xuân T . Cụ thể: 03 khối hình hộp chữ nhật giống nhau có kích thước (14,5x14,5x12)cm, bên ngoài các khối hình hộp chữ nhật có dán giấy nhiều màu sắc, có ghi chữ nước ngoài và có ghi ký hiệu C0836; 05 khối hình hộp chữ nhật giống nhau có kích thước (14,5x14,5x12)cm, bên ngoài các khối hình hộp chữ nhật có dán giấy nhiều màu sắc, có ghi chữ nước ngoài và có ghi ký hiệu C0833 - có tổng khối lượng là 10,8 kilôgam. Riêng 02 khối hình hộp chữ nhật giống nhau có kích thước (14,5x14,5x12)cm, bên ngoài các khối hình hộp chữ nhật có dán giấy nhiều màu sắc, có ghi chữ nước ngoài và có ghi ký hiệu C0836 do Nguyễn Duy T giao nộp có trọng lượng 2,8 kilôgam.

Hội đồng đã lấy ngẫu nhiên 03 khối pháo có tổng khối lượng 4,1 kilôgam (Ký hiệu M1, M2, M3) để phục vụ công tác giám định. 07 khối pháo còn lại có tổng khối lượng 9,5 kilôgam được niêm phong nhập Kho vật chứng theo quy định.

Tại kết luận giám định số 177/KL-PC09(Đ2-CN) ngày 28/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận:“- Các mẫu vật (ký hiệu M1, M2) thu giữ khi bắt quả tang Phạm Xuân T gửi giám định đều là pháo, đều là loại pháo nổ. - Mẫu vật (ký hiệu M3) do Nguyễn Duy T giao nộp gửi giám định là pháo, loại pháo nổ.” Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã quy kết và không có ý kiến khiếu nại gì về quá trình tố tụng.

Cáo trạng số 47/CT-VKS-NL ngày 15/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc truy tố bị cáo Nguyễn Duy T về tội "Buôn bán hàng cấm" theo điểm c khoản 1 điều 190; Nguyễn Văn G về tội "Vận chuyển hàng cấm" và Phạm Xuân T về tội "Tàng trữ hàng cấm" theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố : bị cáo Nguyễn Duy T phạm tội "Buôn bán hàng cấm" theo điểm c khoản 1 điều 190; Nguyễn Văn G phạm tội "Vận chuyển hàng cấm" và Phạm Xuân T phạm tội "Tàng trữ hàng cấm" theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự 2015 - Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm v, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử phạt Nguyễn Duy T mức án từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; Thời gian thử thách 24 đến 30 tháng tính từ ngày tuyên án.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 90; Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử phạt Nguyễn Văn G mức án từ 6 đến 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; Thời gian thử thách 12 đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 90; Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử phạt Phạm Xuân T mức án từ 6 đến 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo; Thời gian thử thách 12 đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao các bị cáo cho chính quyền địa phương và gia đình quản lí giáo dục trong thời gian thử thách. Không áp dụng hình phạt bổ sung với 3 bị cáo Về vật chứng: Đối với số pháo còn lại sau khi giám định hiện đang được tạm giữ tại kho vật chứng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Nghi Lộc đề nghị tịch thu tiêu hủy. Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 1.200.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Duy T và 03 chiếc điện thoại di động thu giữ của các bị cáo dùng trong việc phạm tội. Truy thu khoản tiền 6.800.000 đồng thu lợi bất chĩnh của Nguyễn Duy T.

Người đại diện hợp pháp cũng như người bào chữa không có ý kiến gì về tội danh, điều luật mà Viện kiểm sát cáo buộc đối với cả hai bị cáo chưa thành niên mà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các bị cáo lần đầu phạm tội- đề nghị giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo. Gia đình sẽ có biện pháp kiên quyết trong việc giáo dục, giám sát các cháu. Các bị cáo không tranh luận gì.

Các bị cáo nói lời sau cùng, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An và Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự. Việc điều tra, thu thập chứng cứ đúng trình tự, khách quan; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, khẳng định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng pháp luật.

[2] Về tội danh, khung hình phạt:

Tại phiên tòa hôm nay, lời khai của các bị cáo phù hợp nhau, phù hợp với với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ; Do đó có đủ cơ sở để kết luận:

Do có nhu cầu sử dụng pháo trong dịp Tết Nguyên đán năm 2021 nên Phạm Xuân T đã nhờ Nguyễn Văn G mua hộ pháo. Lúc 12 giờ ngày 22/01/2021, tại nhà của Nguyễn Duy T ở xóm 2, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, G đã mua của T 08 hộp pháo, loại 36 quả/hộp - có tổng khối lượng là 10,8 kilôgam với giá 8.000.000 đồng và chở số pháo này về xưởng sản xuất nhựa ở xóm 1, xã N, huyện N giao lại cho T. Khoảng 18 giờ 45 phút ngày 22/01/2021, Ti đưa 08 hộp pháo về nhà mình ở xóm 9, xã N, thành phố V cất giấu nhằm mục đích để sử dụng. Khi đi đến khu vực khối 4, thị trấn Quán Hành, huyện Nghi Lộc thì bị Tổ công tác Công an huyện Nghi Lộc phát hiện bắt quả tang, thu giữ số pháo nêu trên. Sau đó, Nguyễn Duy T đã ra đầu thú và giao nộp thêm 02 hộp pháo loại 36 quả/hộp có tổng khối lượng 2,8 kilôgam nhằm mục đích bán lại kiếm lời. Như vậy, Nguyễn Duy T đã phạm tội: “Buôn bán hàng cấm” với khối lượng 13,6 kilôgam, Nguyễn Văn G đã phạm tội: "Vận chuyển hàng cấm" với khối lượng 10,8 kilôgam, Phạm Xuân T đã phạm tội "Tàng trữ hàng cấm" với khối lượng 10,8 kilôgam. Tài liệu giám định đã kết luận các mẫu vật thu giữ của Phạm Xuân T, Nguyễn Duy Ty gửi giám định đều là pháo, đều là loại pháo nổ.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc truy tố Nguyễn Duy T về tội "Buôn bán hàng cấm" theo điểm c khoản 1 điều 190; Nguyễn Văn G về tội "Vận chuyển hàng cấm" và Phạm Xuân T về tội "Tàng trữ hàng cấm" theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự 2015 là đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt chính : Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý của Nhà nước trong việc sản xuất, vận chuyển, mua bán, tàng trữ những mặt hàng cấm kinh doanh. Nhất là trong tình hình hiện nay, Nhà nước đang có chủ trương cấm mua bán, vận chuyển và sử dụng các loại pháo nhưng các bị cáo không chấp hành mà lại ngang nhiên vi phạm pháp luật. Vì vậy tuy cần phải xử lý nghiêm nhưng cũng cần xem xét tính chất vụ án để cân nhắc khi lượng hình.

[4] Xét vai trò, trách nhiệm, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của từng bị cáo: Trong vụ án này, bị cáo T có hành vi mua bán khối lượng hàng cấm là 13,6kg thuộc trường hợp nghiêm trọng, tội danh và khung hình phạt cao hơn so với các bị cáo còn lại; Hai bị cáo Nguyễn Văn G, Phạm Xuân T thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số lượng pháo ít hơn nên được hưởng mức án nhẹ hơn.

- Về tình tiết tăng nặng: Cả ba bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào;

- Về tình tiết giảm nhẹ: Cả ba bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 bộ luật Hình sự năm 2015 là: Các bị can thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Nguyễn Văn G, Phạm Xuân T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Nguyễn Duy T, Nguyễn Văn G đầu thú; Nguyễn Duy T đã tự nguyện giao nộp lại một phần số tiền thu lợi bất chính, tự giác nộp lại 02 hộp pháo đang cất giữ nhằm mua bán kiếm lời; Hai bị cáo G và T đều là người chưa đủ 18 tuổi; phạm tội trong trường hợp tâm sinh lí chưa hoàn thiện; nhận thức pháp luật chưa đầy đủ; lượng hàng cấm mua bán, vận chuyển, tàng trữ không lớn; Trong quá trình sinh sống tại địa phương, Nguyễn Duy T lập thành tích xuất sắc trong phòng chống cháy rừng, nhặt được của rơi đã báo trả cho người mất được địa phương tặng khen thưởng; Các bị cáo có nhân thân tốt, có địa chỉ và nơi cư trú rõ ràng.

Với những tình tiết như trên nghĩ phải áp dụng hình phạt tù nhưng chưa cần cách ly xã hội mà xem xét cho 3 bị cáo được hưởng án treo, cho cải tạo tại địa phương dưới sự quản lý giáo dục của chính quyền, gia đình và nhà trường như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng là thỏa đáng;

Về hình phạt bổ sung: tại khoản 4 Điều 190 của Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến một trăm triệu đồng”, do đó các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên hai bị cáo G, T đều chưa đủ 18 tuổi; cả ba bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Về vật chứng: Đối với số vật chứng thu được trong vụ án là số pháo còn lại sau khi giám định hiện đang được tạm giữ tại kho vật chứng của Cơ quan CSĐT Công an huyện Nghi Lộc cần tịch thu tiêu hủy.

- Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 1.200.000 đồng là tiền thu lợi bất chính thu từ Nguyễn Duy T đang được tạm giữ tại tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nghi Lộc. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 03 điện thoại thu giữ của Nguyễn Duy T và Nguyễn Văn G, Phạm Xuân T là phương tiện liên lạc trong khi thực hiện hành vi phạm tội; Truy thu khoản tiền 6.800.000 đồng thu lợi bất chính của Nguyễn Duy T.

[6] Các bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Duy T phạm tội "Buôn bán hàng cấm"; Nguyễn Văn G phạm tội " Vận chuyển hàng cấm"; Phạm Xuân T phạm tội " Tàng trữ hàng cấm".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190, điểm v, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 với Nguyễn Duy T; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; 90; 91 và Điều 101 với Nguyễn Văn G, Phạm Xuân T;

+ Xử phạt Nguyễn Duy T 1(một) năm 03 (ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo; Thời gian thử thách 02 (hai) năm) 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An và gia đình giám sát, quản lý và giáo dục trong thời gian thử thách + Xử phạt Nguyễn Văn G 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo; Thời gian thử thách 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An và gia đình giám sát, quản lý và giáo dục trong thời gian thử thách.

+ Xử phạt Phạm Xuân T 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo; Thời gian thử thách 01(một) năm tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An và gia đình giám sát, quản lý và giáo dục trong thời gian thử thách.

Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát,quản lý và giáo dục các bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì áp dụng theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án Hình sự.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 tuyên bố:

+ Tịch thu tiêu hủy 07 (bảy) hộp Pháo hiện đang tạm giữ tại kho vật chứng thuộc Công an huyện Nghi Lộc theo phiếu nhập kho vật chứng số 13 ngày 02 tháng 02 năm 2021.

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước khoản tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm ngàn đồng) thu giữ của Nguyễn Duy T hiện có tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Nghi Lộc tại Kho bạc Nhà nước huyện Nghi Lộc theo biên lai thu tiền số AA/2018/0002985 ngày 12/4/2021.

+ Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu “SamSung”, đã qua sử dụng; 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu “Nokia” màu đen, đã qua sử dụng; 01 điện thoại Oppo (Thu giữ của Nguyễn Duy T và Nguyễn Văn G, Phạm Xuân T) hiện có tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Nghi Lộc tại Kho bạc Nhà nước huyện Nghi Lộc theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/4/2021.

+ Truy thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 6.800.000 đồng (sáu triệu tám trăm ngàn đồng) tiền thu lợi bất chính của Nguyễn Duy T.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 về Lệ phí, án phí Tòa án buộc Nguyễn Duy T, Nguyễn Văn G, Phạm Xuân T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm;

4. Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của các bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội buôn bán, vận chuyển và tàng trữ hàng cấm

Số hiệu:45/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về