Bản án 45/2021/HSST ngày 05/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN

BẢN ÁN 45/2021/HSST NGÀY 05/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 03 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 39/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Trúc Q; sinh ngày: 12 tháng 10 năm 1977 Nơi Đăng ký HKKT và chỗ ở tổ 8, phường G.S, thành phố TN, tỉnh TN. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo : Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Không.Con ông Đoàn Văn Nh, sinh năm 1944, con bà Trần Bích Tr, sinh năm 1946. G ia đình có 03 chị, em, b ị cáo là c on thứ 2, có vợ Đặng Thị Kim H, sinh năm 1987, có 01 con, sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: Không;

- Nhân thân:

+ Tại Quyết đ ịnh số 1881/QĐ-UB ngày 21/6/2005, UBND thành phố TN Quyết định đưa đ i cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm G iáo dục xã hộ i 05-06 tỉnh TN, thời hạn 12 tháng. Chấp hành xong ngày 21/6/2006.

+ Tại Quyết định số 195/QĐ-CT ngày 12/01/2009, UBND thành phố TN có Quyết định đưa người nghiện ma túy vào chữa bệnh tại Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động xã hội tỉnh TN, thời hạn 12 tháng. Chấp hành xong ngày 07/4/2010.

Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/12/2020 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa) Người chứng kiến: Anh Nguyễn Bá L, sinh năm 1994. Địa chỉ tổ 03, phường G.S, thành phố TN. (Vắng mặt tại phiên tòa);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 45 phút ngày 23/12/2020, tổ công tác của Công an phường G.S, thành phố TN làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực tổ 8 của phường thì phát hiện thấy 01 nam thanh niên đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, nam thanh niên khai họ tên là Đoàn Trúc Q và tự giác giao nộp từ bên trong lòng bàn tay phải ra 02 gó i nhỏ bằng giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng. Theo Q khai nhận đó là ma túy Heroine Q vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Q và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát đ iều tra đã tiến hành cân toàn bộ số chất bột màu trắng thu giữ của Đoàn Trúc Q có khối lượng là 0,148gam (không phẩy một bốn tám gam)và lấy mẫu vật gửi giám đ ịnh ký hiệu Q1.

Tại bản Kết luận giám định số 9342/C09-TT2 ngày 31/12/2020 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: mẫu chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong kí hiệu Q1 gửi giám định là chất ma túy, loại Hero ine.

Tại bản Kết luận giám định số 312/KL-KTHS ngày 26/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Khố i lượng chất bột màu trắng thu giữ ban đầu trong phong bì niêm phong ký hiệu Q1 là 0,148 gam.

Tại cơ quan điều tra,Đoàn Trúc Q khai: Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 23/12/2020, Q đi bộ một mình từ nhà đến Khu đô thị Kosy thuộc tổ 8, phường G.S với mục đích tìm mua ma túy Heroine để sử dụng cho bản thân. Tại đây, Q gặp và mua được của một người đàn ông không quen biết 02 (hai) gó i ma túy Hero ine được gói bằng giấy màu trắng với số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Mua xong, Q cầm 02 gói ma túy Hero ine ở trong lòng bàn tay phải và đi bộ về nhà để sử dụng. Khi Q đi đến gần cổng trường mầm non H. M thuộc tổ 8, phường G.S thì bị tổ công tác công an phường G.S phát hiện,yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác thu giữ 02 gói Heroine trong lòng bàn tay phải của Q như nêu trên.

Lời khai nhận của Đoàn Trúc Q phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án gồm:

- 01 bì niêm phong số 9342/C09(TT2) bên trong có chứa ma túy;

Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 56/CT-VKSTPTN ngày 05 tháng 02 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Đoàn Trúc Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tộ i của mình như như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Trong phần luận tội tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ quy kết bị cáo Đoàn Trúc Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đánh giá nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đoàn Trúc Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt Đoàn Trúc Q từ 24 đến 30 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong số 9342/C09(TT2) bên trong có chứa ma túy là vật chứng là vật cấm và không có giá trị sử dụng.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội Phần lời nói sau cùng b ị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo s ớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận đ ịnh như sau:

[1] Về hành vi, các quyết đ ịnh tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, b ị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của b ị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám đ ịnh và vật chứng thu giữ. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 11 giờ 45 phút ngày 23/12/2020, tại khu vực tổ 8, phường G.S, thành phố TN, Đoàn Trúc Q có hành vi tàng trữ 0,148 gam Hero ine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường G.S phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo biết ma túy là vật cấm được Nhà quản lý nhưng vấn cố tình tàng trữ 0,148 gam Heroine để sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a... c, Heroine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4] Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[5] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

5.1. Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, có 02 Quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục xã hội 05-06 tỉnh TN.

1.2.Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại đ iểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, có nhân thân đã 02 lần có Quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc nhưng không chịu cai nghiện, tu dưỡng rèn luyện bản thân, coi thường pháp luật, nên Hội đồng xét xử cân nhắc có một mức án nghiêm minh tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo để bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật, rèn luyện bản thân cải tạo trở thành người tốt.

Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp, tương xứng với nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[6] Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong hủy 01 bì niêm phong số 9342/C09(TT2) bên trong có chứa ma túy. Vật chứng là vật cấm và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về hình phạt bổ sung và án phí Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, tuy nhiên bị cáo khai là người nghiện ma túy, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng, nên miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Về nguồn gốc số Heroine b ị thu giữ, Đoàn Trúc Q khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ vào ngày 23/12/2020 tại khu đô thị Cosy thuộc phường G.S, thành phố TN. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở làm rõ để xử lý.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

1. Bị cáo Đoàn Trúc Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; đ iểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

2. Xử phạt: Bị cáo Đoàn Trúc Q 24 (Hai mươi bốn) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 23/12/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự Quyết đ ịnh tạm giam bị 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự vµ §iều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong số 9342/C09(TT2), bì niêm phong chứa 0,13 gam chất bột màu trắng và vỏ bao gói mẫu, mẫu hoàn lại sau giám định. Trên mặt bì niêm phong có 06 dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật khoa học hình sự - Bộ công an cùng chữ ký của Hà Hồng L và Ngô Hoàng Đ. Theo biên bản giao nhận vật chứng số 201 ngày 05/02/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy đ ịnh về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Bị cáo, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2021/HSST ngày 05/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về