TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AN NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 45/2020/HS-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM
Ngày 30 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 47/2020/TLST- HS ngày 01 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:
- Họ và tên: Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 11/01/2000 tại huyện A, Bình Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và trú tại: số 585 đương N, phường B, thị xã A, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị Bích D, sinh năm 1972; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự:
không. Bị cáo tại ngoại có mặt.
- Người làm chứng:
1/ Anh Phạm Bá S, sinh năm 1985; địa chỉ: Số nhà 106, đường L, tổ 3, thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.
2/ Anh Phạm Công C, sinh năm 1978; địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn K, huyện K, tỉnh Gia Lai, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
3/ Anh Trần Ngọc T, sinh năm 1982; địa chỉ: Số nhà 108 phố H, thị trấn C, huyện Y, tỉnh Bắc Giang, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Thông qua việc quản lý trang mạng xã hội, Công an tỉnh Bình Định phát hiện Nguyễn Ngọc T đăng tải trên tài khoản mạng xã hội Zalo “Gia Lâm” và Facebook “Lâm Gia” của mình hình ảnh để rao bán bộ phận, sản phẩm của động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm. Ngày 12/9/2019, Tổ công tác phòng PA03 Công an tỉnh Bình Định phối hợp với Công an thị xã An Nhơn tiến hành làm việc với T thì T khai nhận hành vi mua bán bộ phận, sản phẩm của động vật hoang dã, quý hiếm và tự nguyện giao nộp:
- 14 vật có hình dạng móng động vật, màu trắng, có chiều dài từ 35-45mm.
- 01 vật có hình dạng móng động vật, màu đen, gốc có dính lông màu đen, dài 43mm.
- 38 vật có hình dạng nhẫn tròn màu trắng, đường kính từ 22mm đến 26mm.
- 10 vật có hình dạng miếng mỏng hình tròn, bầu dục, đường kính từ 24- 33mm.
- 09 vật có hình dạng móng động vật, màu trắng đục, đầu bọc kim loại màu bạc, có chiều dài từ 30mm đến 34mm.
- 01 vật có hình dạng móng động vật, màu xám trắng, đầu bọc kim loại màu bạc, có chiều dài 41mm.
- 01 vật có hình tròn màu trắng, dày 7mm, đường kính 58mm.
- 01 vật có hình dạng nhẫn tròn màu trắng, dày 8mm, đường kính 25mm.
- 01 vật có hình dạng nhẫn tròn màu trắng, dày 7mm, đường kính 27mm, chạm khắc hình tỳ hươu.
- 04 vật có hình dạng tròn, bầu dục màu trắng, dày từ 5mm đến 7mm, đường kính từ 40mm đến 45mm.
- 05 vật có hình dạng nanh động vật, màu trắng, dài từ 72mm đến 150mm. Kết luận giám định số 305/KLGĐ-SHNĐ ngày 18/11/2019 của Viện Sinh học nhiệt đới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam kết luận:
+ 05 (Năm) chiếc móng màu trắng ngà, chiều dài từ 40-45mm là sản phẩm trong 01 bàn chân của Hổ Đông Dương, không phải là bộ phận không thể tách rời sự sống.
Hổ Đông Dương – Panthera tigris, thuộc họ mèo lớn – Felidae; Bố thú ăn thịt – Carnivora; Lớp thú – Mammalia. Hổ Đông Dương– Panthera tigris là loại động vật thuộc nhóm IB – Danh mục các loại động vật nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ trong Nghị định 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 và Nghị định 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019.
+ 09 (Chín) chiếc móng, màu trắng ngà, chiều dài từ 35-37mm và 09 (chín) chiếc móng màu trắng đục, bọc kim loại màu trắng, chiều dài từ 30-34mm là sản phẩm của 01 cá thể Mèo rừng.
Mèo rừng – Prionailurus bengalensis. Mèo rừng là loài động vật thuộc nhóm IIB – Danh mục các loài động vật nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ trong Nghị định 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi về công ước buôn bán Quốc tế về buôn bán các loại động vật, thực vật hoang dã nguy cấp.
+ 01 (Một) chiếc móng, màu đen, chân móng có lông đen, chiều dài 45mm và 01 (một) chiếc móng màu xám trắng, bọc kim loại màu trắng, chiều dài 41mm là sản phẩm trong 01 bàn chân của Gấu chó, không phải là bộ phận không thể tách rời sự sống.
+ 03 (Ba) chiếc nanh, bị nứt mẻ do tuổi già là sản phẩm của Gấu chó, là bộ phận không thể tách rời sự sống của 01 cá thể Gấu chó.
Gấu chó – Ursus malayanus; thuộc họ gấu: Ursidae; Bộ thú ăn thịt – Carnivora; Lớp thú – Mammilia. Gấu chó – Ursus malayanus là loài động vật thuộc nhóm IB – Danh mục các loại động vật nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ trong Nghị định 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 và Nghị định 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019.
+ 02 (Hai) chiếc nanh là sản phẩm của Heo rừng. Heo rừng – Sus scrofa; thuộc họ heo rừng – Suridae; Bộ thú móng guốc chẵn – Arctiodactyla; Lớp thú – Mammilia. Heo rừng là loài động vật thông thường.
+ 38 chiếc nhẫn tròn, màu trắng, đường kính từ 22mm đến 26mm; 10 chiếc dạng miếng mỏng hình tròn, bầu dục, đường kính từ 24-33mm; 01 vòng tròn màu trắng, dày 7mm, đường kính 58mm; 01 nhẫn tròn màu trắng, dày 8mm, đường kính 25mm; 01 nhẫn tròn màu trắng, dày 7mm, đường kính 27mm, chạm khắc hình tỳ hươu; và 04 miếng hình tròn bầu dục, dày từ 5mm đến 7mm, đường kính từ 40mm đến 45mm, chạm hình mặt Phật là ngà Voi Châu phi, có tổng khối lượng 147g.
Ngà voi châu Phi – Loxodonta africana là sản phẩm của động vật quý hiếm thuộc phụ lục I CITES trong Thông tư 04/2017/TT-BNNPTNT có hiệu lực ngày 10/4/2017. Phụ lục I là tương đương với nhóm IB trong Nghị định 160/2013/NĐ- CP vì là động vật nguy cấp quý hiếm được ưu tiên bảo vệ.
Kết luận định giá tài sản số 38 ngày 10/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã An Nhơn kết luận: 18 chiếc móng Mèo rừng có trị giá 2.700.000 đồng.
Tại bản Cáo trạng số 37/CT-VKSAN ngày 30 tháng 6 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc T về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 244 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
* Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 244; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T từ 12 (mười hai) đến 18 (mười tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách do Hội đồng xét xử ấn định.
* Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự,
- Tuyên tịch thu, tiêu hủy: 03 (Ba) chiếc móng Hổ Đông Dương màu trắng và 07 (bảy) chiếc móng Mèo rừng, dài từ 35-45mm; 01 (Một) chiếc móng Gấu chó màu đen, chân móng có lông màu đen, dài 45mm; 30 (Ba mươi) chiếc nhẫn tròn làm từ ngà voi Châu Phi, màu trắng, đường kính từ 22-26mm; 08 (Tám) chiếc dạng miếng tròn bầu dục làm từ ngà voi Châu Phí, màu trắng, đường kính từ 24-33mm, chạm khắc mặt Phật; 07 (Bảy) chiếc móng Mèo rừng, màu trắng đục, bọc kim loại màu trắng, dài từ 30-34mm; 01 (Một) nhẫn tròn làm từ ngà voi Châu Phi, dày 08mm, đường kính 25mm; 03 (Ba) miếng hình tròn bầu dục làm từ ngà voi Châu Phi, màu trắng, đường kính từ 40-45mm, dày 5-7mm, chạm khắc mặt Phật; 01 (Một) chiếc nanh heo rừng; 02 (Hai) chiếc nanh gấu và 01 (Một) sim điện thoại mạng Vinaphone số thuê bao 0814.717.679.
- Tuyên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 2.100.000 đồng (Hai triệu một trăm nghìn đồng), Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng, tỏ ra ăn hăn hối cải về hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên và tại lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã An Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định đó. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc T khai nhận: từ tháng 01/2018, bị cáo đã sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo kết bạn với nhiều tài khoản khác lấy hình ảnh bộ phận, sản phẩm của động vật hoang dã, quý, hiếm rồi đăng tải lên tài khoản Zalo, Facebook của mình để quảng cáo, rao bán. Ngày 12/9/2019, hành vi mua, bán bộ phận, sản phẩm của động vật hoang dã, quý, hiếm của bị cáo T bị phát hiện và bị cáo tự nguyện giao nộp 85 vật phẩm của động vật hoang dã, quý, hiếm, trong đó có 03 vật phẩm là 03 chiếc nanh Gấu chó (là bộ phận không thể tách rời sự sống của cá thể Gấu chó) và 02 vật phẩm khác là 02 chiếc móng Gấu chó (là sản phẩm của cá thể Gấu chó). Gấu chó là loại nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ quy định tại số thứ tự 25, mục Động vật, Phụ lục I Nghị định số 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019 của Chính phủ về sửa đổi Điều 7 Nghị định số 160/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ về tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý loại thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ.
[3] Lời khai nhận về hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ cũng như các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo T có đầy đủ khả năng nhận thức, nên buộc phải biết việc tàng trữ, buôn bán trái phép các loài động vật nguy cấp, quý, hiếm là hành vi bị Nhà nước nghiêm cấm. Nhưng vì mục đích kiếm lời, bị cáo bất chấp những chế tài của pháp luật đã buôn bán, tàng trữ các sản phẩm từ động vật hoang dã. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo T phạm vào tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm” theo điểm b khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Hình sự.
[4] Xét hành vi của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm, xâm phạm nghiêm trọng đến môi trường sinh thái, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho đời sống xã hội nên cần thiết phải xử lý bằng pháp luật hình sự.
[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã nhận thức được sai phạm, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về việc phạm tội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo đã tự nguyện giao nộp khoản tiền thu lợi bất chính nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xét bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, nơi cư trú rõ ràng và không chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà để bị cáo tự cải tạo tại địa phương cũng đủ giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
[6] Xét thấy không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 4 Điều 244 của Bộ luật hình sự.
[7] Về xử lý vật chứng:
- Đối với các vật chứng: 03 (Ba) chiếc móng Hổ Đông Dương màu trắng và 07 (bảy) chiếc móng Mèo rừng, dài từ 35-45mm; 01 (Một) chiếc móng Gấu chó màu đen, chân móng có lông màu đen, dài 45mm; 30 (Ba mươi) chiếc nhẫn tròn làm từ ngà voi Châu Phi, màu trắng, đường kính từ 22-26mm; 08 (Tám) chiếc dạng miếng tròn bầu dục làm từ ngà voi Châu Phí, màu trắng, đường kính từ 24-33mm, chạm khắc mặt Phật; 07 (Bảy) chiếc móng Mèo rừng, màu trắng đục, bọc kim loại màu trắng, dài từ 30-34mm; 01 (Một) nhẫn tròn làm từ ngà voi Châu Phi, dày 08mm, đường kính 25mm; 03 (Ba) miếng hình tròn bầu dục làm từ ngà voi Châu Phi, màu trắng, đường kính từ 40-45mm, dày 5-7mm, chạm khắc mặt Phật; 01 (Một) chiếc nanh heo rừng; 02 (Hai) chiếc nanh gấu 01 (Một) sim điện thoại mạng Vinaphone số thuê bao 0814.717.679, là phương tiện sử dụng vào việc phạm tội và vật cấm tàng trữ, nên áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu, tiêu hủy - Đối với số tiền 2.100.000 (Hai triệu một trăm nghìn) đồng, là khoản thu lợi bất chính của bị cáo T, nên áp dụng điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước
[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, bị cáo T phải chịu 200.000đ.
[9] Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã An Nhơn còn thu giữ của bị cáo T các vật phẩm: ngà Voi Châu Phi với tổng trọng lượng 147g; 05 chiếc móng Hổ Đông Dương– không phải là bộ phận không thể tách rời sự sống; 18 chiếc móng mèo rừng là sản phẩm của cá thể mèo rừng. Tuy nhiên, định lượng cũng như giá trị các vật phẩm này không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điều 234, 244 của Bộ luật Hình sự, nên không xử lý hình sự đối với T là có căn cứ.
[10] Phạm Công C và Trần Ngọc T thừa nhận có mua sản phẩm từ động vật hoang dã của bị cáo T, nhưng đã làm mất, nên không có căn cứ xử lý.
[11] Đối với các chủ tài khoản mạng xã hội Zalo “Phan Ninh”, “Đỗ Hoàng” đã bán các bộ phận, sản phẩm của động vật nguy cấp, quý, hiếm cho Nguyễn Ngọc T; các chủ tài khoản mạng xã hội Facebook “Toan Hien Nguyễn”, “Vô thường”, “Sơn Bình” và người đàn ông ở thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định đã mua các bộ phận, sản phẩm của động vật nguy cấp, quý, hiếm của bị cáo T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã An Nhơn đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.
[12] Đối với Phạm Bá S – chủ tài khoản mạng xã hội Zalo “Đam Mê Phạm S” không thừa nhận có bán bộ phận, sản phẩm của động vật nguy cấp, quý, hiếm cho Nguyễn Ngọc T, Cơ quan CSĐT Công an thị xã An Nhơn không thu giữ được vật chứng và các chứng cứ khác nên chưa có căn cứ để xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 244; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51: Điều 65 của Bộ luật Hình sự Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T 12 (mười hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Ngọc T cho Ủy ban nhân dân phường Bình Định, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp bị cáo Nguyễn Ngọc T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.
Trong thời gian thử thách, bị cáo Nguyễn Ngọc T cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo T phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 của Bộ luật Hình sự,
- Tuyên tịch thu, tiêu hủy:
+ 03 (Ba) chiếc móng Hổ Đông Dương màu trắng; 07 (bảy) chiếc móng Mèo rừng, dài từ 35-45mm; 01 (Một) chiếc móng Gấu chó màu đen, chân móng có lông màu đen, dài 45mm; 30 (Ba mươi) chiếc nhẫn tròn làm từ ngà voi Châu Phi, màu trắng, đường kính từ 22-26mm; 08 (Tám) chiếc dạng miếng tròn bầu dục làm từ ngà voi Châu Phí, màu trắng, đường kính từ 24-33mm, chạm khắc mặt Phật; 07 (Bảy) chiếc móng Mèo rừng, màu trắng đục, bọc kim loại màu trắng, dài từ 30- 34mm; 01 (Một) nhẫn tròn làm từ ngà voi Châu Phi, dày 08mm, đường kính 25mm; 03 (Ba) miếng hình tròn bầu dục làm từ ngà voi Châu Phi, màu trắng, đường kính từ 40-45mm, dày 5-7mm, chạm khắc mặt Phật; 01 (Một) chiếc nanh heo rừng; 02 (Hai) chiếc nanh gấu (Tất cả được niêm phong trong bì ni lông màu trắng có đóng dấu giáp lai của Viện sinh học nhiệt đới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam):
+ 01 (Một) sim điện thoại mạng Vinaphone số thuê bao 0814.717.679.
Hiện đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã An Nhơn theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 30/6/2020.
- Tuyên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 2.100.000 đồng (Hai triệu một trăm nghìn đồng). Hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã An Nhơn theo Giấy nộp tiền mặt số 11276227 ngày 29/6/2020 của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Chi nhánh Phú Tài, Phòng giao dịch An Nhơn.
- Về án phí hình sự thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc T phải chịu 200.000đ - Quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 45/2020/HS-ST ngày 30/07/2020 về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm
Số hiệu: | 45/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã An Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về