Bản án 45/2020/HNGĐ-ST ngày 21/04/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 45/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1240/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2020/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Thị Cẩm V, sinh năm 1983. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp P, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

Bị đơn: Huỳnh Minh T, sinh năm 1988. (vắng mặt) Địa chỉ: ấp TQT, xã TP, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 07 tháng 10 năm 2019 và những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Cẩm V trình bày: Bà và ông Huỳnh Minh T cưới nhau năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TP ngày 12/6/2013. Vợ chồng chung sống được bốn năm. Đến năm 2017, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, sống không hợp nhau, đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nay, tình nghĩa vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn nên bà xin ly hôn với ông T.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà và ông T có một con chung tên Huỳnh Minh TH, sinh ngày 22/11/2013, hiện đang sinh sống với bà. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, bà V có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng ông T vẫn vắng mặt, cũng không có văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị Cẩm V khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Huỳnh Minh T, có hộ khẩu thường trú tại ấp TQT, xã TP, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An và có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn ông T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà V và ông T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã TP ngày 12/6/2013 nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về yêu cầu ly hôn: Trong quá trình chung sống, bà V cho rằng năm 2017, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, sống không hợp nhau, đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nay, tình nghĩa vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn nên bà xin ly hôn với ông T. Đối với ông T, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của bà V nhưng ông T không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của bà V. Tại phiên tòa hôm nay, ông T vẫn vắng mặt, chứng tỏ ông không có thiện chí để hàn gắn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu xin ly hôn của bà V đối với ông T là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung: Quá trình chung sống, bà V và ông T có một con chung tên Huỳnh Minh TH, sinh ngày 22/11/2013, hiện đang sinh sống với bà V. Khi ly hôn, bà V yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng. Đối với ông T, dù đã được thông báo về yêu cầu của bà V đối với con chung nhưng ông T không đến Tòa án cũng không có văn bản phản hồi ý kiến gửi Tòa án. Xét thấy, để đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu Thắng thấy rằng cần tiếp tục giao con chung cho bà V nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Bà V không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung: Bà V trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông T không có văn bản phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí: Bà V phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Cẩm V đối với ông Huỳnh Minh T về việc “Ly hôn”.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Cẩm V được ly hôn với ông Huỳnh Minh T.

2. Về con chung: Bà V được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Huỳnh Minh TH, sinh ngày 22/11/2013, hiện đang sinh sống với bà V. Ông T không phải cấp dưỡng nuôi con do bà V không có yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Bà V phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0004156 ngày 05/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành. Bà V đã nộp đủ.

Án xử sơ thẩm, công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2020/HNGĐ-ST ngày 21/04/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:45/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về