Bản án 45/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 45/2019/HS-ST NGÀY 26/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 8 năm 2019 tại Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 42/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2019 đối với:

* Bị cáo: Trnh Đức A - Sinh ngày 13/02/2001. Nơi cư trú: xóm 3, xã Nghĩa Minh, huyện N, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: Nam; con ông Trịnh Thành Đ, sinh năm 1976 và bà Phạm Thị Th, sinh năm 1979, hiện cả 2 đều làm công nhân tại Công ty giày da xã Nghĩa M; vợ con: Không; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 20/12/2017, bị Công an huyện N xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo Trịnh Đức A bị bắt, tạm giữ từ ngày 31/5/2019 đến ngày 03/6/2019 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N cho đến nay; có mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Bùi Văn Cường, sinh năm 1980; nơi cư trú: Xóm 8, xã Nghĩa M, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

2. Ông Tống Thanh Cao, sinh năm 1954; nơi cư trú: Xóm 4, xã Nghĩa M, huyện N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20 giờ 50 phút ngày 31/5/2019, tại khu vực cây xăng thuộc xóm 4, xã Nghĩa M, huyện N, tổ công tác Công an huyện N phát hiện bắt quả tang Trịnh Đức A đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Bùi Văn Cường. Thu giữ của Cường 01 gói nhỏ, vỏ gói bằng giấy màu vàng, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (niêm phong ký hiệu M), Cường khai nhận đó là 01 gói heroine vừa mua của Đức A với giá 200.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL, vỏ màu xanh đen, đã qua sử dụng, lắp sim có số thuê bao là 0971.257.980. Thu giữ của Đức A số tiền 200.000 đồng (tờ tiền bằng polymer mệnh giá 200.000 đồng có số sêri SM 13257518), Đức A khai là tiền vừa bán 01 gói heroine cho Cường mà có; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, vỏ màu vàng, đã qua sử dụng, lắp sim có số thuê bao là 0344.742.225. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Trịnh Đức A không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại bản kết luận giám định số 537/GĐKTHS ngày 01/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói nhỏ, vỏ gói là giấy màu vàng, được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy, loại ma túy: heroine, khối lượng mẫu M: 0,027 gam.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra, Trịnh Đức A đã khai nhận hành vi phạm tội của mình và khai nhận: Chiều ngày 31/5/2019, Đức A đi nhờ xe của 01 người đi đường lên khu vực ngã tư đường đen thuộc xã Đồng Sơn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định mua của một người thanh niên không biết tên, tuổi, địa chỉ 01 gói ma túy heroine với giá 100.000 đồng, mục đích bán kiếm lời. Sau đó, Đức A đi nhờ người đi đường không quen biết về nhà. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 31/5/2019, Cường gọi điện thoại cho Đức A để hỏi mua 200.000 đồng tiền heroine. Đức A hẹn Cường tại cây xăng Nghĩa Minh. Khoảng 20 giờ 50 phút cùng ngày, khi Đức A đanh bán ma tuý cho Cường thì bị bắt quả tang.

Bản cáo trạng số 44/CT-VKS ngày 12/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo như tội danh và điều luật đã nêu. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Trịnh Đức A từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 537/KTHS ngày 01/6/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định; Tịch thu hoá giá sung quỹ nhà 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL, vỏ màu xanh đen, đã qua sử dụng, lắp sim có số thuê bao là 0971.257.980 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, vỏ màu vàng, đã qua sử dụng, lắp sim có số thuê bao là 0344.742.225; Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 200.000 đồng có số sêri là: SM 13257518. Đề nghị áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 6; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc để buộc bị cáo phải nộp án phí.

Tại phiên toà hôm nay qua xét hỏi và tranh luận bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người làm chứng không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu đã được xác lập có trong hồ sơ vụ án cũng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo ra trước phiên toà hôm nay. Như vậy đã đủ cơ sở xác định: Khoảng 20 giờ 50 phút ngày 31/5/2019, tại khu vực cây xăng Nghĩa Minh, thuộc xóm 4, xã Nghĩa Minh, huyện N, Trịnh Đức A đang có hành vi bán trái phép 0,027 gam heroine cho Bùi Văn Cường thì bị bắt quả tang. Đối chiếu với Bộ luật hình sự thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Hành vi đó của bị cáo đã xâm phạm trật tự trị an, an toàn xã hội trong khu vực, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn hoá của dân tộc. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng cố ý thực hiện. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử công khai, lên án xử lý nghiêm minh là cần thiết nhằm góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong vụ án này bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tập chung cải tạo đối với bị cáo nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì niêm phong số 537/KTHS ngày 01/6/2019 (Bên trong phong bì có vỏ bao gói mẫu (Mẫu đã tiêu tốn hết trong quá trình giám định), Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định, cần tịch thu tiêu huỷ; Số tiền 200.000 đồng (bằng polymer mệnh giá 200.000 đồng có số sêri là: SM 13257518), cần tịch thu sung quỹ nhà nước; 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL, vỏ màu xanh đen, đã qua sử dụng, lắp sim có số thuê bao là 0971.257.980 thu giữ của Bùi Văn Cường và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, vỏ màu vàng, đã qua sử dụng, lắp sim có số thuê bao là 0344.742.225 thu giữ của Trịnh Đức A liên quan đến việc phạm tôi, cần tịch thu hoá giá sung quỹ nhà nước.

[6] Đối với Bùi Văn Cường là người đi mua ma túy về sử dụng nhưng khối lượng nhỏ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an huyện N đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Cường là phù hợp.

Đi với người thanh niên bán ma túy cho Trịnh Đức A tại khu vực ngã tư đường đen thuộc xã Đồng Sơn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định ngày 31/5/2019, hiện chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục điều tra, xử lý sau.

[7] Bị cáo Trịnh Đức A phải chịu án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 6; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 6; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Tuyên bố bị cáo Trịnh Đức A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”;

2. Xử phạt bị cáo Trịnh Đức A 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/5/2019.

3. Xử lý vật chưng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 537/KTHS ngày 01/6/2019 (Bên trong phong bì có vỏ bao gói mẫu (Mẫu đã tiêu tốn hết trong quá trình giám định), Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định.

Tch thu hoá giá sung quỹ nhà 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL, vỏ màu xanh đen, đã qua sử dụng, lắp sim có số thuê bao là 0971.257.980 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, vỏ màu vàng, đã qua sử dụng, lắp sim có số thuê bao là 0344.742.225.

Tch thu sung quỹ nhà nước số tiền 200.000 đồng (mệnh giá 200.000 đồng có số sêri là: SM 13257518).

Vật chứng của vụ án đang được quản lý tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N lập ngày 16/7/2019.

4. Án phí: Buộc bị cáo Trịnh Đức A phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án và người được thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:45/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Trực - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về