Bản án 45/2019/HNGĐ-ST ngày 17/05/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 45/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 17 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 568/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2019/QĐXX-ST ngày 08 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị L, sinh năm 1974; cư trú tại: Ấp M, xã AC, huyện C1, tỉnh Tiền Giang. (Có mặt)

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng G, sinh năm 1968; cư trú tại: Ấp B, xã BP, huyện C, tỉnh Tiền Giang. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, nguyên đơn, chị Lê Thị L trình bày: Chị và anh Nguyễn Hoàng G tiến đến hôn nhân thông qua người làm mai nhưng có thời gian để hai bên tìm hiểu. Hai bên tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 05-12-2011 tại Ủy ban nhân dân xã AC, huyện C1, tỉnh Tiền Giang. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không hợp tính tình nên thường xuyên cự cãi nhau. Anh G đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống, không quan tâm gì đến vợ con kể từ năm 2016 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, anh G cũng không quan tâm gì đến chị và con chung. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh G.

Về con chung: Có 01 con chung là cháu Nguyễn Lê Kim N, sinh ngày 29- 8-2012, hiện cháu N đang sống với chị nên chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, dù anh Nguyễn Hoàng G đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh G không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị L, vắng mặt trong các phiên họp và tại phiên tòa.

Tại phiên tòa, chị Lê Thị L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh G, đồng thời yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cai Lậy phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, theo đó việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung của chị L là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Lê Thị L và anh Nguyễn Hoàng G tranh chấp về ly hôn; anh G hiện cư trú trên địa bàn huyện Cai Lậy. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì thẩm quyền giải quyết vụ án là của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy.

[2] Bị đơn, anh Nguyễn Hoàng G không có đơn xin xét xử vắng mặt, đã được Tòa án tiến hành triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt anh G.

[3] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Hôn nhân giữa chị Lê Thị L và anh Nguyễn Hoàng G là hợp pháp vì có đăng ký và được Ủy ban nhân dân xã AC, huyện C1, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 05-12-2011. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị L sống hạnh phúc đến đầu năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chị L nêu và được chính quyền địa phương xác nhận là do bất đồng quan điểm, không hợp tính tình nên thường xuyên cự cãi nhau, anh G không quan tâm, chăm sóc vợ con và đã bỏ về nhà mẹ ruột sinh sống từ khoảng tháng 6- 2016 đến nay mà không có liên lạc gì với vợ con. Dù các tình tiết này chỉ do phía chị L nêu ra, được chính quyền địa phương xác nhận nhưng phía anh G không có ý kiến gì phản đối là tự mình từ bỏ nghĩa vụ chứng minh. Anh G không đến Tòa để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị L, cũng như để hàn gắn tình cảm vợ chồng nếu như còn yêu thương vợ nên xem như anh G đã không còn quan tâm đến hôn nhân của vợ chồng nữa. Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; cùng chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình” và “vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau”. Qua đó, Hội đồng xét xử nhận thấy giữa chị L và anh G đã không còn tình nghĩa vợ chồng, tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không còn nên mục đích của hôn nhân không đạt được, vì vậy yêu cầu xin ly hôn của chị L là có căn cứ.

[4] Về con chung: Giữa chị L và anh G có 01 con chung là cháu Nguyễn Lê Kim N, sinh ngày 29-8-2012, hiện cháu N đang sống với chị L. Chị L có thu nhập đủ điều kiện nuôi con và yêu cầu được trực tiếp nuôi con, phía anh G không có yêu cầu được nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu N cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp, tránh làm xáo trộn cuộc sống, tâm lý của cháu.

[5] Về nợ chung, tài sản chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh G không có ý kiến gì về các vấn đề này, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Chị Lê Thị L là nguyên đơn khởi kiện vụ án hôn nhân gia đình nên phải chịu án phí theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[7] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với nội dung vụ án nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị L. Cho chị Lê Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng G.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Lê Kim N, sinh ngày 29-8-2012 cho chị Lê Thị L trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn. Anh Nguyễn Hoàng G không phải cấp dưỡng nuôi con, do chị L chưa yêu cầu.

Anh Nguyễn Hoàng G có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở.

3. Về án phí: Chị Lê Thị L phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 16213 ngày 12-12-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, nên xem như chị L đã thi hành xong án phí.

Chị Lê Thị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Thời hạn kháng cáo của anh Nguyễn Hoàng G là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/HNGĐ-ST ngày 17/05/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:45/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về