Bản án 45/2019/DS-ST ngày 01/03/2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 45/2019/DS-ST NGÀY 01/03/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Trong ngày 01 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 35/2018/TLST-DS ngày 06 tháng 12 năm 2018 về “tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 234/2019/QĐXXST-DS ngày 13 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị H, sinh năm 1979, Có mặt. Địa chỉ: 80/2 ấp TA, xã TH, huyện P, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1962, Có mặt. Địa chỉ: 169/1 ấp HB, xã TH, huyện P, tỉnh Bến Tre.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Phan Văn Q, sinh năm 1976, Có mặt. Địa chỉ: 185/4 ấp TB, xã TH, huyện P, tỉnh Bến Tre.

- Bà Trần Thị D, sinh năm 1960, (Có đơn xin xét xử vắng mặt). Địa chỉ: 169/1 ấp TB, xã TH, huyện P, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng tại tòa nguyên đơn Huỳnh Thị H trình bày:

Ông Nguyễn Văn K tham gia chơi hụi ở hai dây hụi do chị làm chủ hụi, cụ thể là:

Dây hụi thứ nhất: hụi 3.000.000 đồng, hụi có lãi, gồm 28 phần, ông K tham gia một phần, hụi khui ngày 15/3/2017 (âm lịch), mãn ngày 15/6/2019 (âm lịch). Ngày 15/7/2017 (âm lịch) ông K hốt hụi, chị giao tiền hụi vào ngày 25/7/2017 (âm lịch), sau khi hốt hụi ông K không đóng hụi chết, dây hụi này chị đã úp hụi, còn lại 24 lần đóng hụi chết nên ông K còn nợ chị số tiền 72.000.000 đồng.

Dây hụi thứ hai: hụi 1.000.000 đồng, gồm 26 phần, ông K tham gia một phần, hụi khui ngày 30/11/2016 (âm lịch), mãn ngày 10/12/2018 (âm lịch). Ông K đã hốt hụi và chị đã giao hụi, đến ngày 10/8/2017 (âm lịch) ông K không đóng hụi chết, dây hụi này đã mãn, còn lại 17 lần đóng hụi chết nên số tiền ông K còn nợ tiền chị là 17.000.000 đồng.

Tổng số tiền ông K còn nợ chị là 89.000.000 đồng, sau đó ông K có trả được số tiền 1.500.000 đồng nên còn nợ chị số tiền 87.500.000 đồng đến nay không trả tiền hụi cho chị.

Chị tham gia chơi hụi là để tạo thu nhập cho gia đình, chồng chị Phan Văn Q cũng biết việc chị chơi hụi và có chung yêu cầu với chị.

Do quá trình chơi hụi ông K là người tham gia chơi hụi nhưng ông K chơi hụi là để lấy vốn làm ăn tạo thu nhập cho gia đình, vợ ông K là bà Trần Thị D cũng đồng ý trả nợ với ông K nên chị yêu cầu ông K và bà D có nghĩa vụ liên đới trả cho chị và anh Q số tiền 87.500.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Theo biên bản lấy lời khai và trong quá trình tố tụng tại tòa bị đơn Nguyễn Văn K trình bày:

Ông thống nhất với lời trình bày của chị H về việc ông tham gia chơi hai phần hụi ở hai dây hụi do chị H làm chủ hụi như chị H trình bày, thống nhất việc sau khi hốt hụi thì ông không đóng hụi chết cho chị H, thống nhất số tiền nợ hụi hiện nay còn nợ chị H là 87.500.000 đồng và đồng ý trả cho chị H số tiền 87.500.000 đồng. Do ông chơi hụi lấy vốn làm ăn nhưng việc làm ăn thua lỗ nên không có tiền đóng hụi chết cho chị H. Hiện nay hoàn cảnh gia đình ông khó khăn vì vậy ông xin được trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi hết số nợ 87.500.000 đồng.

Khi ông chơi hụi vợ ông là bà Trần Thị D không biết nhưng sau khi ông không có khả năng đóng hụi chết ông có báo lại cho bà D, vợ ông cũng thống nhất với việc ông còn thiếu tiền chị H và đồng ý liên đới cùng ông trả số nợ 87.500.000 đồng cho chị H.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phan Văn Q trình bày: Anh thống nhất với lời trình bày của vợ anh là Huỳnh Thị H là việc chị H chơi hụi nhằm tạo thu nhập cho gia đình, số tiền nợ hụi của ông K là tài sản chung của hai vợ chồng anh nên yêu cầu ông K và bà D có nghĩa vụ liên đới trả cho vợ chồng anh số tiền 87.500.000 đồng.

Theo biên bản lấy lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị D trình bày:

Khi ông K chơi hụi với chị H bà không biết nhưng khi ông K không có khả năng đóng hụi chết có nói lại cho bà biết. Ông K chơi hụi để lấy vốn làm ăn, buôn bán tạo thu nhập cho gia đình nên bà đồng ý liên đới cùng ông K trả cho chị H số tiền nợ hụi là 87.500.000 đồng. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên bà xin được trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi hết nợ. Vì bà bận công việc nên xin được vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký trong thời gian chuẩn bị xét xử: Trong thời gian chuẩn bị xét xử Thẩm phán, Thư ký thực hiện đúng với quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định tại các Điều 70, 71, 72, 73 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Chị H và ông K thống nhất về số dây hụi và số tiền nợ hụi ông K còn nợ chị H là 87.500.000 đồng. Chị H yêu cầu ông K và bà D có trách nhiệm liên đới trả cho chị H và anh Q số tiền 87.500.000 đồng. Ông K và bà D xác nhận số tiền nợ hụi là khoản nợ chung của hai vợ chồng và cùng đồng ý liên đới trả cho chị H và anh Q nên yêu cầu của chị H là có căn cứ đề nghị Hội đồng xét xử buộc ông K và bà D có trách nhiệm liên đới trả cho chị H và anh Q số tiền 87.500.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng. Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: nguyên đơn Huỳnh Thị H yêu cầu bị đơn Nguyễn Văn K trả tiền nợ hụi nên đây là “tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; bị đơn Nguyễn Văn K cư trú tại số nhà 169/1 ấp TB, xã TH, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre; theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú.

[3] Về tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị D có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng chấp nhận yêu cầu xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về áp dụng pháp luật nội dung: chị H và ông K thống nhất thời gian chơi hụi có dây hụi năm 2016, có dây hụi năm 2017 nên áp dụng quy định của Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật dân sự 2015 để giải quyết.

[5] Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn Huỳnh Thị H và bị đơn Nguyễn Văn K thống nhất được ông K có tham gia chơi hai phần hụi ở hai dây hụi do chị H làm chủ hụi, hợp đồng góp hụi giữa chị H và ông K được giao kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, không ai bị lừa dối hoặc bị ép buộc; cả hai đều có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự nên được xem là hợp đồng hợp pháp. Chị H và ông K thống nhất về số dây hụi và số tiền nợ hụi ông K còn nợ chị H là 87.500.000 đồng nên có yêu cầu ông K và bà D có trách nhiệm liên đới trả cho chị H và anh Q số tiền 87.500.000 đồng. Ông K và bà D xác nhận số tiền nợ hụi là khoản nợ chung của hai vợ chồng và cùng đồng ý liên đới trả cho chị H và anh Q. Vì vậy, chị H và anh Q yêu cầu ông K và bà D liên đới trả số tiền nợ hụi 87.500.000 đồng là có căn cứ phù hợp với Điều 479 Bộ luật dân sự 2005, Điều 471 Bộ luật dân sự 2015, Điều 27 Luật hôn nhân gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, anh Q buộc ông K và bà D có trách nhiệm liên đới trả cho chị H và anh Q số tiền 87.500.000 đồng.

[6] Ông K và bà D đề nghị được trả dần theo phương thức mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi hết số nợ hụi vì hoàn cảnh của ông K và bà D khó khăn. Xét thấy, ông K là người tham gia chơi hụi đã hốt hụi phải có nghĩa vụ đóng hụi chết nhưng sau khi hốt hụi ông K đã không thực hiện đúng nghĩa vụ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chị H và yêu cầu trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng của ông K, bà D cũng không được chị H đồng ý, hiện nay có dây hụi khui ngày 30/11/2016 (âm lịch) đã mãn hụi, còn dây hụi khui ngày 15/3/2017 (âm lịch), tuy chưa mãn hụi nhưng chị H đã úp hụi, ông K và bà D đã vi phạm nghĩa vụ đóng hụi và tại tòa tự nguyện thống nhất số tiền nợ hụi phải trả cho chị H cả hai dây hụi là 87.500.000 đồng nên buộc ông K và bà D phải trả một lần hết số tiền 87.500.000 đồng.

[7] Về án phí: yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147, khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 479 Bộ luật dân sự 2005; Điều 471, 357, 468 Bộ luật dân sự 2015. Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Nghị định số 144/2006/NĐ-CP, ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.

Căn cứ Điều 17 Luật phí và lệ phí; Điều 26, Điều 27, điểm b Tiểu mục 1.3 Mục 1 Phần II (danh mục án phí) Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Huỳnh Thị H. Buộc ông Nguyễn Văn K và bà Trần Thị D có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Huỳnh Thị H và anh Phan Văn Q số tiền 87.500.000 (tám mươi bảy triệu năm trăm nghìn) đồng.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, có đơn yêu cầu của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Nguyễn Văn K và bà Trần Thị D có nghĩa vụ liên đới nộp 4.375.000 (bốn triệu ba trăm bảy mươi lăm nghìn) đồng.

Chị Huỳnh Thị H được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.187.500 đồng theo biên lai thu số 0021509 ngày 06 tháng 12 năm 2018.

3. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

322
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2019/DS-ST ngày 01/03/2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

Số hiệu:45/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 01/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về