Bản án 45/2018/HNGĐ-ST ngày 30/08/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH S

BẢN ÁN 45/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 30/8/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 117/2018/TLST-HNGĐ ngày 20/6/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 03/8/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Chúc L, sinh năm 1995 (có mặt) Địa chỉ: Ấp C, xã A, huyện Đề, tỉnh Sóc Trăng

2. Bị đơn: Ông Văn Công H, sinh năm 1988 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp N, A, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/5/2018 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Chúc L trình bày: Vào năm 2010 bà L và ông Văn Công H tự nguyện chung sống với nhau, có tổ chức lễ cưới, nhưng đến năm 2014 mới đi đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã A, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 131, quyển số 01 ngày 01/10/2014. Sau khi kết hôn vợ chồng bà đến sống tại nhà anh ruột ông H tại ấp N, thị trấn Đ, huyện Đề, tỉnh Sóc Trăng, bà và ông H chung sống hạnh phúc được một thời gian, đến tháng 11/2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do ông H không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con, thường xuyên chửi mắng, xua đuổi bà. Bà L và ông H đã không còn chung sống từ tháng 01/2015 đến nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc nên yêu cầu được ly hôn. Thời gian chung sống bà L và ông H có một con chung là: Văn Thị Diễm M, sinh ngày 18/11/2011, hiện đang chung sống với bà L. Bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi con đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông Hóa cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Văn Công H, nhưng ông H không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà L, đồng thời ông H cũng không đến tham gia phiên hòa giải cũng như tham gia phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, tuy nhiên sự chấp hành pháp luật của bị đơn chưa đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Chúc L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tòa án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập xét xử đến lần thứ hai cho ông Văn Công H nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông Văn Công H. [2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Chúc L, nhận thấy bà L và ông

H tự nguyện chung sống với nhau năm 2010, có tổ chức lễ cưới, nhưng đến năm 2014 mới đi đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã A, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 131, ngày 01/10/2014. Quan hệ hôn nhân của bà L và ông H không vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Nhưng sau một thời gian chung sống, đến tháng 11/2014 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do ông H không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con, dẫn đến mâu thuẫn kéo dài. Hiện bà L nhận thấy cuộc sống chung không hạnh phúc, không còn tình cảm vợ chồng nên có nguyện vọng ly hôn. Bà L và ông H đã không còn chung sống từ tháng 01/2015 đến nay. Hội đồng xét xử đã phân tích động viên bà L suy nghĩ lại, hàn gắn tình cảm vợ chồng với ông H, nhưng bà L vẫn cương quyết xin được ly hôn, từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Nguyễn Thị Chúc L được ly hôn với ông Văn Công H.

[3] Về con chung: Thời gian chung sống bà L và ông H có một con chung là Văn Thị Diễm M, sinh ngày 18/11/2011 hiện đang chung sống với bà L. Bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi cháu M đủ 18 tuổi. Để đảm bảo cuộc sống của cháu không bị xáo trộn, để cháu phát triển bình thường về tâm, sinh lý, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu được nuôi con của bà L. Hiện bà L có việc làm, thu nhập ổn định, đảm bảo đủ điều kiện nuôi con, nên việc bà L không yêu cầu ông H cấp dưỡngnuôi con chung, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về tài sản chung: Bà L trình bày tài sản chung không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Bà L trình bày nợ chung không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Chúc L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn theo quy định tại điểm a hhoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Khoản 3 Điều 36, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Chúc L.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Chúc L được ly hôn với ông Văn Công H.

- Về con chung: Giao con chung là Văn Thị Diễm M, sinh ngày 18/11/2011 cho bà Nguyễn Thị Chúc L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu M đủ 18 tuổi. Ông Văn Công H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Văn Công H được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở. Ông Văn Công H không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Văn Thị Diễm M của bà Nguyễn Thị Chúc L.

- Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Chúc L trình bày tài sản chung không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị Chúc L trình bày nợ chung không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2/ Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Chúc L phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền ứng án phí bà L đã nộp 300.000 đồng, theo Biên lai số 0009630, ngày 15/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà L đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí.

Ông Văn Công H không phải chịu án phí sơ thẩm.

3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải Thi hành án có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2018/HNGĐ-ST ngày 30/08/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:45/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về