Bản án 45/2018/HNGĐ-ST ngày 25/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 45/2018/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng  10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh  Yên  Bái  mở  phiên  tòa  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  thụ  lý  số: 371/2018/TLST-HNGĐ ngày 13  tháng  9 năm 2018 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2018/QĐXX-ST ngày 10 tháng10 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phùng Thị H. Có mặt

Địa chỉ: Thôn Đ, xã N, huyện L. Tỉnh Nam Định

Bị đơn: Anh Lê Văn G. Vắng mặt có lý do.

HKTT: Tổ 7, phường H, thành phố Y, tỉnh Yên Bái.

Hiện đang cải tạo tại đội 10, phân trại 5 T, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 13- 9 -2018 và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình giải quyết tại tòa án nguyên đơn chị Phùng Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị Phùng Thị H kết hôn với anh Lê Văn G vào ngày 23 tháng 12 năm 2008, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố Y, tỉnh Yên Bái trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống Hạnh phúc đến năm 2013 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bấtđồng quan điểm sống, hai vợ chồng hay cãi chửi nhau, do anh G nghiện chất ma túy.

Hai bên gia đình và chị H đã khuyên nhủ anh G nhiều lần nhưng anh G vẫn không thay đổi. Hiện nay anh G đang chấp hành án tại trại T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Chị H xác định tình cảm vợ chồng đã hết và đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Văn G.

Về nuôi con chung: Chị H và anh G có hai con chung là cháu Lê Quang T, sinh ngày 06 tháng 10 năm 2009 và cháu Lê Quang D, sinh ngày 22 tháng 10 năm 2011. Hiện nay các cháu đang ở với chị H, chị H có yêu cầu được nuôi cả hai cháu và không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, nợ chung: Chị Phùng Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản ghi lời khai ngày  05 tháng 10 năm 2018 bị đơn anh Lê Văn G trình bày: Anh và chị H kết hôn với nhau vào ngày 20 tháng 11 năm 2008 có đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố Y, tỉnh Yên Bái, anh chị kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do chị H ngoại tình, mâu thuẫn trầm trọng nhất vào tháng 10 năm 2017 cũng từ đó vợ chồng sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị H yêu cầu ly hôn, anh G xác định tình cảm vợ chồng đã hết, anh G đồng ý ly hôn với chị H.

Về con nuôi con chung: Anh G xác định vợ chồng có hai con chung như chị H trình bày là đúng, ly hôn anh G đồng ý giao cả hai con cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, do anh G đang chấp hành án nên anh G không có điều kiện, thu nhập do đó anh G không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh G không yêu cầu tòa án giải quyết

Do anh G đang chấp hành án nên không đến Tòa án để tham gia tố tụng được anh G đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân  thành  phố Yên Bái tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật.

Các đương sự thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Hướng giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử

Căn cứ điều 28; Điều 35; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81,Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của chị Phùng Thị H, xử chị H được ly hôn anh Lê Văn G.

- Về nuôi con chung: Giao hai cháu là cháu Lê Quang T, sinh ngày 06 tháng 10 năm 2009 và cháu Lê Quang D, sinh ngày 22 tháng 10 năm 2011 cho chị H trực tiếptrông nom chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục cháu T và cháu D cho đến khi các cháu 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Anh G không phải cấp dưỡng nuôi con

- Về tài sản: Chị H, anh G  không yêu cầu giải quyết, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Về án phí: Căn cứ khoản 5 điều 27 của Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016, chị Phùng Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về Hôn nhân và gia đình, nuôi con nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự

Về sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Bị đơn có yêu cầu được xét xử vắng mặt tại phiên Tòa, Căn cứ điều 227, Điều 228 của BLTTDS Hội đồng xét xử tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về hôn nhân: Chị Phùng Thị H và anh Lê Văn G kết hôn với nhau ngày 23 tháng 12 năm 2008 (theo giấy đăng ký kết hôn) có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân  phường H, thành phố Y, tỉnh Yên Bái trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu  là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, giữa chị H và anh G phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do anh G sử dụng trái phép chất ma túy, vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau. Hai bên gia đình, chị H khuyên nhủ anh G  nhiều lần nhưng anh G không thay đổi và vẫn sử dụng ma túy. Hiện nay anh G đanh chấp hành án tại Trại T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay, không ai còn  quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa. Chị H xác định tình cảm vợ chồng đã hết, đề nghị được ly hôn với anh G.

Xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị Phùng Thị H và anh Lê Văn G đã hết, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Quá trình giải quyết vụ án, Chị H có đơn yêu cầu đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải, Căn cứ khoản 4 Điều 207, nên Tòa án không tiến hành hòa giải. Anh G cũng đồng ý ly hôn với chị H. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị H là có căn cứ, nên cần chấp nhận cho chị H được ly hôn với anh G.

[3] Về nuôi con chung: Chị Phùng Thị H và anh Lê Văn G có hai con chung là cháu Lê Quang T, sinh ngày 06 tháng 10 năm 2009 và cháu Lê Quang D, sinh ngày 22 tháng 10 năm 2011. Chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh G phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy hiện nay  cháu T và cháu D đang sống ổn định cùng chị H và để phù hợp với nguyện vọng của các cháu do đó cần giao hai cháu Lê Quang T và cháu Lê Quang D cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho tới khi đủ 18 tuổi. Anh G không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản, nợ chung: Chị Phùng Thị H và anh Lê Văn G không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Phùng Thị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều  28; Điều 35; Điều 39;  Điều 147;  Điều 227; 228; Điều 235; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phùng Thị H.

1. Về hôn nhân: Chị Phùng Thị H được ly hôn với anh Lê Văn G.

2. Về nuôi con chung:

Giao hai cháu Lê Quang T, sinh ngày 06 tháng 10 năm 2009 và cháu Lê Quang D, sinh ngày 22 tháng 10 năm 2011 cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh G không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh G có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai có quyền được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phùng Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là: 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) mà chị H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2017/0000743 ngày 13/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.

Anh Lê Văn G không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Án xử sơ thẩm, công khai. Chị Phùng Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Lê Văn G được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 - Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30- Luật thi hành án dân sự”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2018/HNGĐ-ST ngày 25/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:45/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về