Bản án 45/2018/DS-ST ngày 12/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 45/2018/DS-ST NGÀY 12/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 58/2018/TLST-DS ngày 17 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2018/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 9 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 58a/2018/QĐST-DS ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Hồ Thị Ph, sinh năm 1958;

Nơi cư trú: Thôn Tân Hưng, xã Ninh Hưng, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.

2. Bị đơn: Bà Võ Thị H;

Nơi cư trú: Thôn Tân Hưng, xã Ninh Hưng, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện và lời trình bày trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án cũng như tranh tụng tại phiên tòa hôm nay của nguyên đơn thể hiện:

Do có quen biết từ trước nên ngày 26/4/2015 bà Võ Thị H, cư trú tại: Thôn Tân Hưng, xã Ninh Hưng, thị xã Ninh Hòa có mượn của bà 7.600.000 đồng để làm ăn, không tính lãi, có lập giấy mượn tiền cùng ngày; đến ngày 21/5/2016, Bà H mượn tiếp của bà 100.000.000 đồng, không tính lãi và hứa đến ngày 11/8/2017 sẽ trả cho bà số tiền đã mượn. Tuy nhiên đến thời điểm cam kết trả nợ Bà H không thực hiện việc trả nợ. Bà đã nhiều lần tìm gặp và nhắc nợ nhưng Bà H vẫn chây ì, không chịu trả. Nay, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa buộc Bà H phải trả cho bà hai khoản nợ nêu trên với tổng số tiền là 107.600.000 đồng, trả một lần, không yêu cầu tính lãi.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với bị đơn bà Võ Thị H nhưng bà H cố tình trốn tránh, không có mặt nên không có bản tự khai và không tiến hành hòa giải được theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa tại phiên tòa sơ thẩm:

+ Về chấp hành pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn đã chấp hành đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không chấp hành nhưng đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

+ Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa nhận thấy có đủ cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn bà Võ Thị H phải trả cho bà Hồ Thị Ph số tiền nợ là 107.600.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Võ Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Hồ Thị Ph yêu cầu bà Võ Thị H trả số tiền 107.600.000 đồng là số tiền nợ chưa trả; bà Võ Thị H có nơi cư trú tại: Thôn Tân Hưng, xã Ninh Hưng, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Vì vậy, khi xảy ra vi phạm thuộc tranh chấp dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a, khoản 1, Điều 35 và điểm a, khoản 1, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về nội dung tranh chấp: Ngày 26/4/2015 bà Võ Thị H, cư trú tại: Thôn Tân Hưng, xã Ninh Hưng, thị xã Ninh Hòa có mượn của bà Hồ Thị Ph 7.600.000 đồng để làm ăn, không tính lãi, có lập giấy mượn tiền cùng ngày; đến ngày 21/5/2016, Bà H mượn tiếp của Bà Ph 100.000.000 đồng, không tính lãi và hứa đến ngày 11/8/2017 sẽ trả cho Bà Ph số tiền đã mượn. Tuy nhiên đến thời điểm cam kết trả nợ Bà H không thực hiện việc trả nợ. Bà Ph đã nhiều lần tìm gặp và nhắc nợ nhưng Bà H vẫn chây ì, không chịu trả. Nay, Bà Ph khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa buộc Bà H phải trả cho bà hai khoản nợ nêu trên với tổng số tiền là 107.600.000 đồng, trả một lần, không yêu cầu tính lãi.

Hi đồng xét xử xét thấy, việc bà Võ Thị H chậm trả tiền đã vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của Bà Ph, vì vậy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có sơ sở để chấp nhận. Buộc bà Võ Thị H phải trả cho bà Hồ Thị Ph số tiền 107.600.000 đồng (Một trăm lẻ bảy triệu sáu trăm ngàn đồng) ngay một lần, khi bản án có hiệu lực pháp luật. Bà Ph không yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[5] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26; khoản 2 Điều 92; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 264; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 471; Điều 474 và Điều 477 Bộ luật dân sự năm 2005;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bà Võ Thị H phải trả cho bà Hồ Thị Ph số tiền 107.600.000 đồng (Một trăm lẻ bảy triệu sáu trăm ngàn đồng), ngay một lần khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về án phí: Bà Võ Thị H phải chịu 5.380.000đ (Năm triệu ba trăm tám mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại cho bà Hồ Thị Ph 2.690.000đ (Hai triệu sáu trăm chín mươi ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2016/0003843 ngày 16 tháng 4 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa.

Quy định chung: Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan Thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2018/DS-ST ngày 12/11/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:45/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về