Bản án 45/2017/HNGĐ-ST ngày 30/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 45/2017/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 30/8/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 135/2017/TLST-HNGĐ ngày 04/7/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2017/QĐST-HNGĐ ngày 07/8/2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần T, sinh năm 1985 (có mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp N, xã L, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng

2. Bị đơn: Ông Danh H, sinh năm 1981 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp N, xã L, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 08/6/2017 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần T trình bày: Vào năm 2007 bà T và ông Danh H tự nguyện chung sống với nhau, đến năm 2010 mới đi đăng ký kết hôn và được UBND xã L, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 147 ngày 10/8/2010. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, ông H còn dùng bạo lực với bà T. Vợ chồng đã ly thân từ năm 2012 đến nay. Hiện bà T nhận thấy không thể chung sống với ông H được nữa, nên có nguyện vọng ly hôn. Vợ chồng có 01 con chung là Danh Th, sinh ngày 20/10/2008 hiện đang sống với ông H.

Nay bà T yêu cầu được ly hôn với ông H. Về con chung, bà T đồng ý giao con cho ông H nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi, bà T không phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông H nhưng ông H không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu ly hôn, nuôi con của bà T, đồng thời ông H cũng không đến tham gia phiên hòa giải cũng như tham gia phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề xác định:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, tuy nhiên sự chấp hành pháp luật của bị đơn chưa đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần T

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Tòa án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập xét xử đến lần thứ hai cho ông Danh H nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông H

 [2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Trần T, nhận thấy bà T và ông H tự nguyện chung sống với nhau năm 2007, có đăng ký kết hôn năm 2010, đã được UBND xã L, huyện Đ, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 147 ngày 10/8/2010. Quan hệ hôn nhân của bà T và ông H không vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Nhưng sau một thời gian chung sống, đến năm 2011 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do ông bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, ông H còn dùng bạo lực với bà T, vợ chồng đã ly thân từ năm 2012 đến nay. Hiện bà T nhận thấy không thể chung sống với ông H được nữa nên có nguyện vọng ly hôn. Hội đồng xét xử đã phân tích động viên bà T suy nghĩ lại, hàn gắn tình cảm vợ chồng với ông H nhưng bà T vẫn cương quyết xin được ly hôn, từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Trần T được ly hôn với ông Danh H.

Thời gian chung sống bà T và ông H có một con chung là Danh Th, sinh ngày 20/10/2008 hiện đang sống với ông H, bà T đồng ý giao con cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu Th đủ 18 tuổi. Để đảm bảo cuộc sống của cháu Th không bị xáo trộn, để cháu phát triển bình thường về tâm sinh lý, đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng cho ông H biết về yêu cầu giao con chung cho ông H nuôi dưỡng, bà T không phải cấp dưỡng nuôi con, nhưng ông H không có văn bản trình bày ý kiến, cũng như không phản đối yêu cầu của bà T nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của bà T là giao con cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng, bà T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Bà T trình bày không có, không có yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Án phí sơ thẩm: Bà Trần T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn theo quy định tại điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/QBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệphí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Khoản 3 Điều 36, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/QBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử :

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần T

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần T được ly hôn với ông Danh H

- Về con chung: Giao cháu Danh Th, sinh ngày 20/10/2008 cho ông Danh H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu Th đủ 18 tuổi. Bà Trần T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Bà Trần T được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở, bà Trần T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Danh Th của ông Danh H.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trần T trình bày không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2/ Về án phí sơ thẩm: Bà Trần T phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền ứng án phí bà T đã nộp 300.000 đồng, theo Biên lai số 0006367, ngày 27/6/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà T đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí.

3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải Thi hành án có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 45/2017/HNGĐ-ST ngày 30/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:45/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về