Bản án 447/2020/HSPT ngày 14/08/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 447/2020/HSPT NGÀY 14/08/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 14 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 165/2020/TLPT-HS ngày 28 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo Phạm Văn D do bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị hại kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2020/HS-ST ngày 17/04/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

Bị cáo bị kháng cáo: Phạm Văn D, sinh năm 1968 tại tỉnh B; Thường trú: Ấp Tân An, xã Tân Xuân, huyện B, tỉnh B; Trình độ học vấn: Lớp 02/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông Phạm Văn Ngừng (chết) và bà Đỗ Thị Hai; Vợ: Trần Thị T, có 09 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa từng bị kết án. Bị bắt tạm giam từ ngày 06/11/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Trương Thị Thu Hà thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh – Có mặt.

Người bị hại: Phạm Thị Huyền T1, sinh ngày 11/10/2004 (chết);

Người đại diện hợp pháp của người bị hại có kháng cáo: Bà Trần Thị T, sinh năm 1966 ủy quyền cho chị Phạm Thị Bé D1, sinh năm 1994 – Có mặt;

Cùng trú ấp Tân An, xã Tân Xuân, huyện B, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do chuồng vịt bị chó cắn phá làm giảm năng suất trứng, Phạm Văn D nảy sinh việc giăng dây kẽm gài điện để chống chó cắn phá. Chiều ngày 22/10/2019, D dùng 04 đoạn cây cắm thành hình tứ giác ngang đường đi bên cạnh chuồng vịt rồi dùng dây kẽm quấn vào 04 đoạn cây và dùng dây dẫn điện qua một cầu dao điện (CP) nối vào nguồn điện dương từ nhà của D, treo theo sát vách mái nhà của chuồng vịt, không để biển báo nguy hiểm. D tắt CP rồi vào nhà ngủ và nói cho vợ, con là Trần Thị T, Phạm Thị Hoài K biết việc gài điện.

Khoảng 20 giờ cùng ngày, con của D là Phạm Thị Huyền T1 từ thị trấn B về thăm gia đình. Nghĩ rằng T1 không đi ra hướng chuồng vịt nên D không nói cho T1 biết việc gài điện. Khoảng 22 giờ cùng ngày, D bật CP chế độ dẫn điện ra đường dây kẽm đã giăng. Khoảng 03 giờ ngày 23/10/2019, bà T thức dậy không thấy T1, nghĩ là T1 đi ra ngoài nên bà T lên võng nằm chờ khoảng 30 phút không thấy T1 vào nhà nên bà thì đi ra chuồng vịt thì thấy T1 nằm úp mặt xuống đất ở lối đi cạnh chuồng vịt nên chạy vào nhà báo cho D biết. D cúp điện rồi ra đưa T1 vào nhà nhưng T1 đã chết.

Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 23/10/2019 thể hiện: Hiện trường nơi xảy ra điện giật chết người tại khu vực chuồng nuôi vịt của ông Phạm Văn D trên bờ kênh, dọc theo vách lá chuồng vịt tiếp giáp phần đất vườn là lối đi rộng 2,96 m. Vị trí giăng dây kẽm một bên là mương vườn, một bên là vách lá chuồng vịt. Có hai trụ cây cắm bên lề lộ mé mương vườn cách nhau 02 m và hai trụ cây cắm phía chuồng vịt cách nhau 1,86 m, cách vách chuồng vịt 0,7 m. Dây kẽm được quấn nối vào 04 trụ cây theo chiều ngang, dọc và chéo góc, cách mặt đất từ 12 cm đến 22 cm. Tại hiện trường không thấy biển báo cấm, biển báo hiệu có điện hoặc biển báo có liên quan đến điện.

Kết luận giám định pháp y về tử thi số 165/TT ngày 20/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B xác định: Nhiều vết cháy bỏng, hằn da hóa than ở các vị trí: Môi trên, môi dưới và cằm; Mặt trước, trong khuỷu tay phải và mặt trước trong đầu trên cẳng tay; Mặt sau 1/3 giữa cẳng tay trái,mu bàn tay và các ngón tay; Mặt trước đùi phải, mặt trước ½ dưới cẳng chân, mu bàn chân và mặt mu ngón III, IV; Mặt trước đầu dưới đùi trái, gối, mặt trước đầu trên cẳng chân,cổ chân và mu bàn chân; Dịch hồng trong hai khoang ngực và khoang màng tim lượng ít; Phù căng và xuất huyết dạng chấm, dạng mảng bề mặt hai phổi và mặt ngoài tim; Da: lớp sừng bị phồng rộp, có chỗ đọng bụi than. Lớp tế bào đáy có chỗ teo đét, có chỗ bong tróc, mạch máu sung huyết; Phù phổi cấp tính/Sung huyết, xuất huyết tim, phổi, gan. Nguyên nhân chết: Do bị điện giật.

Kết quả kiểm tra điện kế tại cầu dao tổng trong nhà là 220,09 A; điện kế tại cầu dao dẫn diện ra chuồng vịt là 224,07 A; điện kế mối nối dây điện vào CP là 224,9 A; điện kế đầu vào của CP là 224,2 A; đầu ra nối vào dây kẽm quấn 04 trụ cắm trên lối đi là 224 A.

Tại Bản cáo trạng số 02/CT-VKS-P1 ngày 08/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B đã truy tố Phạm Văn D về tội “Giết người” theo điểm b khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự;

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2020/HS-ST ngày 17/4/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh B đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn D phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Phạm Văn D 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/11/2019.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn xử lý vật chứng; quyết định về án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 27/4/2020, bị cáo Phạm Văn D có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt. Ngày 27/4/2020, bà Trần Thị T là người đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo khai nhận bị cáo gài điện để chó khỏi cắn phá chuồng vịt, nhưng không may con của bị cáo vướng vào bị điện giật chết. Bị cáo rất hối hận, xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm về lo cho gia đình, chăm sóc mẹ già và các con còn nhỏ.

Người đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày từ khi bị cáo bị bắt đến nay, bà T phải gánh vác toàn bộ việc nuôi bà nội già yếu và 08 người con, gia đình lâm vào khó khăn chồng chất nên xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm về lo cho gia đình.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị xem xét nhận thức của bị cáo rất hạn chế, việc cháu T1 chết là ngoài ý muốn của bị cáo, bị cáo phạm tội nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ như thật thà khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường đầy đủ phần dân sự, gia đình có công cách mạng, làng xóm láng giềng có đơn xin giảm nhẹ, nên đề nghị giảm nhẹ cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị xem xét đơn kháng cáo của bị cáo và đơn kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại hợp lệ. Về nội dung Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm tội “Giết người” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đã xử phạt bị cáo 07 năm tù là tương xứng nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo và đơn kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại đảm bảo hình thức và thời hạn, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định pháp y, biên bản thu giữ vật chứng, lời khai của những người làm chứng cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ để xác định vào ngày 22/10/2019, bị cáo Phạm Văn D gài điện trên lối đi, làm cho con của bị cáo là Phạm Thị Huyền T1 là người dưới 16 tuổi bị điện giật chết. Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm tội “Giết người” theo điểm b khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng con người, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự an toàn xã hội ở địa phương nên phải xử phạt nghiêm. Biết rõ việc gài điện là nguy hiểm, người vướng vào sẽ bị điện giật chết nhưng bị cáo vẫn bất chấp để thực hiện việc gài điện làm cho con của bị cáo bị điện giật chết nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội. Bản án sơ thẩm đã cân nhắc đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi, tự nguyện bồi thường thiệt hại, chị ruột và cậu ruột của bị cáo là liệt sỹ, mẹ của bị cáo có Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, người đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ, nhân dân địa phương nơi bị cáo cư trú có đơn kiến nghị giảm nhẹ cho bị cáo và xử phạt bị cáo 07 năm tù đã là mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề nhẹ hơn theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, nên không thể giảm nhẹ thêm về hình phạt cho bị cáo, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, lời bào chữa của luật sư, kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp.

[4] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng;về án phí sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo bị cáo Phạm Văn D và không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị T là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2020/HS-ST ngày 17/4/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

2. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 và Điều 38 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn D phạm tội “Giết người”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn D 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/11/2019. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng; về án phí sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

372
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 447/2020/HSPT ngày 14/08/2020 về tội giết người

Số hiệu:447/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về