Bản án 447/2019/HS-PT ngày 07/08/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 447/2019/HS-PT NGÀY 07/08/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 781/2018/TLPT-HS ngày 27 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Thị Ng do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 59/2018/HSST ngày 16 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1958, tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: Ấp C D, xã M T, huyện D T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: bán vé số; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam, giới tính: Nữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn R (đã chết) và bà Nguyễn Thị p, sinh năm 1924; bị cáo có 08 chị em lớn nhất sinh năm 1945, nhỏ nhất sinh năm 1970; chồng là ông Lê Quốc H (đã chết); có 06 con lớn nhất sinh năm 1977, nhỏ nhất sinh năm 1990; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam từ ngày 05/12/2015 cho đến nay (có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Ng: Luật sư Bùi Phúc Thạch - Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)

- Bị cáo liên quan đến kháng cáo: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1976, tại tỉnh Bình Dương; hộ khẩu thường trú: Ấp Cần Đôn, xã Minh Thạnh, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: không biết chữ; quốc tịch: Việt Nam, giới tính: Nữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lâm D, sinh năm 1945 (đã chết) và bà Nguyễn Thị R, sinh năm 1945; bị cáo có 09 anh em lớn nhất sinh năm 1968, nhỏ nhất sinh năm 1984; chồng là ông Nguyễn Chí C, sinh năm 1980; có 03 con lớn nhất sinh năm 1998 (chết năm 2015), nhỏ nhất sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam từ ngày 27/9/2016 cho đến nay (có mặt)

- Bị hại:

1. Bà Trần Thị Việt H, sinh năm 1959; Hộ khẩu thường trú: Ấp Đ X, xã T H, huyện Đ P, tỉnh Bình Phước (có mặt)

2. Ông Lương Viết C, sinh năm 1973; Hộ khẩu thường trú: Ấp T B, xã T L, huyện Đ P, tỉnh Bình Phước (có mặt)

3. Ông Hoàng Quyết C, sinh năm 1953; Hộ khẩu thường trú: Số 248/7/2, đường N T T, phường T N, thành phố V T, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt)

4. Bà Lê Thị Thanh T, sinh năm 1963; Hộ khẩu thường trú: Ấp 1, xã T T, thị xã Đ X, tỉnh Bình Phước (có mặt)

5. Bà Vũ Thị Hi, sinh năm 1969; Hộ khẩu thường trú: Khu phố T A, thị trấn T P, huyện Đ P, tỉnh Bình Phước (vắng mặt)

6. Bà Bùi Thị Mỹ D, sinh năm 1966; Hộ khẩu thường trú: Ấp 1B, xã P H, huyện P G, tỉnh Bình Dương (có mặt)

7. Bà Trần Thị Thu H, sinh năm 1981; Hộ khẩu thường trú: Tổ 1, khu phố PT, phường T P, thị xã Đ X, tỉnh Bình Phước (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 05 phút ngày 04/12/2015, nhận tin báo về vụ giữ người trái pháp luật tại nhà nghỉ H K, tại khu phố 4 phường H T, thành phố T D M, tỉnh Bình Dương, Công an phường H T tiến hành kiểm tra hành chính nhà nghỉ H K thì phát hiện bà Vũ Thị Hi và bà Lê Thị Thanh T, đang có hành vi giữ bà Nguyễn Thị Ng, nên đã lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và chuyển giao đến Công an thành phố T D M để làm rõ.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, bà Vũ Thị H và bà Lê Thị Thanh T khai nhận lý do giữ Nguyễn Thị Ng là do Ng có hành vi nhiều lần mượn tiền của bà H, bà T và của bà Trần Thị Thu H; bà Bùi Thị Mỹ D, nhiều lần hứa hẹn nhưng không trả. Bà H, bà T, bà Thu H và bà D làm đơn tố cáo Nguyễn Thị Ng về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Quá trình điều tra, xác định được;

Ngày 09/01/2015, bà Trần Thị V H, sinh năm 1959, Hộ khẩu thường trú tại ấp Đ X, xã T H, huyện Đ P, tỉnh Bình Phước gặp Nguyễn T D, sinh năm 1964, Hộ khẩu thường trú tại thôn 5, xã T H, huyện B Đ, tỉnh Bình Phước thì T D giới thiệu là cổ đông của dự án Khu du lịch sinh thái tại huyện D T, tỉnh Bình Dương có diện tích 200 hecta của nhà đầu tư từ Đài Loan, T D đã đầu tư rất nhiều tiền vào dự án trên, đến khi hoàn thành dự án, T P sẽ được chia 60.000.000.000 đồng (sáu mươi tỷ đồng). Hiện dự án sắp hoàn tất và tiền từ Đài Loan đã chuyển về Ngân hàng tại Việt Nam nhưng do còn thiếu tiền “bôi trơn” chưa rút tiền ra được. T D hỏi mượn bà H số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) lo “bôi trơn” để rút tiền ra và hẹn ngày 10/01/2015, T D sẽ trả tiền gốc và bồi dưỡng cho bà H gấp 10 lần số tiền bà Hoa cho mượn tức 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng), bà H đồng ý cho T D mượn. Đến ngày 10/01/2015, T D không trả mà nói với bà H là chưa đủ tiền nên chưa rút được tiền từ Ngân hàng và mượn thêm bà H 15.000.000 triệu đồng (mười lăm triệu đồng) và hẹn hôm sau sẽ trả và bồi dưỡng gấp 10 lần số tiền đã mượn thì bà H đồng ý cho mượn. Tuy nhiên, cứ mỗi lần đến hẹn trả tiền, T D lại nói số tiền đã mượn chưa đủ để “bôi trơn” nên đề nghị mượn thêm và hẹn ngày hôm sau sẽ rút được tiền sẽ trả và bồi dưỡng gấp 10 lần số tiền đã cho mượn.

Đến ngày 12/01/2015, T D nói với bà H là T D sẽ giới thiệu cho bà H một cổ đông lớn hơn, có cổ phần được chia là 200.000.000.000 đồng (hai trăm tỷ đồng) rồi T D đưa bà H đến thành phố T D M gặp Nguyễn Thị Ng, thì Ng tự giới thiệu Ng là cổ đông của dự án Khu du lịch sinh thái tại huyện D T có diện tích 200 hecta do Đài Loan đầu tư với tổng kinh phí là 2.000.000.000.000 đồng (hai ngàn tỷ đồng), hiện dự án đã hoàn tất và tiền từ Đài Loan đã chuyển về Ngân hàng tại Việt Nam nhưng do còn thiếu tiền “bôi trơn” nên chưa rút tiền được, đồng thời Ng đề nghị bà H cho Ng mượn 15.000.000 đồng (mười năm triệu đồng) “bôi trơn” cho giám đốc ngân hàng và Công an để rút tiền ra và hẹn ngày hôm sau Ng sẽ trả số tiền trên và bồi dưỡng cho bà H số tiền gấp 10 lần nên bà H đồng ý cho Ng mượn tiền.

Sau đó, bà H giới thiệu T D và Ng với bà Vũ Thị H và ông Lương Viết C, rồi bà H lại tiếp tục giới thiệu T D và Ng với bà Trần Thị T H, Bùi Thị M D, Lê Thị Thanh T, ông Hoàng Quyết C; với thủ đoạn như trên, T D và Ng đề nghị các bị hại cho T D và Ng mượn tiền để “bôi trơn” ngày hôm sau rút tiền sẽ trả tiền mượn và bồi dưỡng gấp 10 lần.

Tuy nhiên, sau nhiều lần mượn tiền và hẹn trả nhưng Ng không trả tiền nên các bị hại H, Hi, C, T H, M D, T, Chiến hỏi lý do thì Ng giới thiệu cổ đông chính của dự án nêu trên là Nguyễn Thị Th (Th là hàng xóm của Ng, là người trước đây bán cháo lòng và Ng làm thuê, phụ rửa chén cho Th), số tiền mà D và Ng nhận của các bị hại H, Hi, C, T H, D, T thì Ng đều đã chuyển vào tài khoản của Th, đồng thời Ng cho số điện thoại của Th để các bị hại H, Hi, C, T H, D, T, C trực tiếp liên lạc với Th.

Khi các bị hại H, Hi, C, T H, D, T, C liên lạc điện thoại với Th thi Th tự giới thiệu Th là cổ đông chính của dự án Khu du lịch sinh thái tại huyện Dầu Tiếng, hiện dự án đã hoàn tất, tiền đã chuyển về Ngân hàng ở Việt Nam, chỉ cần có tiền “bôi trơn” cho Giám đốc Ngân hàng, Công an kinh tế,... là sẽ rút tiền ra được. Sau đó, Th đề nghị các bị hại H, Hi, C, T H, Dung, T, C cho mượn tiền và hẹn hôm sau rút được tiền sẽ trả và bồi dưỡng gấp 10 lần như Ng và D đã từng hứa hẹn, nhưng đến hẹn trả tiền thì Th, Ng đều nói là số tiền mà các bị hại cho mượn vẫn chưa đủ để “bôi trơn” nên đề nghị cho mượn thêm; sau khi Ng bị các bị hại T, Hi, T H, D giữ tại nhà nghỉ H K thì Nguyễn Thị D và Lê Thị T Dư (Dư là con ruột của Nguyễn Thị Ng) tiếp tục thực hiện thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tiền của các bị hại.

Với thủ đoạn như trên, Ng và Th đã tạo sự tin tưởng và đánh vào tâm lý hám lợi của các bị hại H, Hi, T H, D, T, C, Chi nên các bị hại này đồng ý cho mượn tiền rất nhiều lần; trong khoảng thời gian từ ngày 09/01/2015 đến ngày 04/12/2015 bằng hình thức đưa tiền mặt có viết giấy mượn tiền và chuyển khoản vào tài khoản của Nguyễn Thị Ng tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Chi nhánh huyện D T, tỉnh Bình Dương (số tài khoản 5501205026538) và tài khoản của Nguyễn Thị Th tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Chi nhánh huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương (số tài khoản 5504205054358), Nguyễn Thị Ng và Nguyễn Thị Th đã chiếm đoạt tiền của từng người cụ thể như sau:

1. Bà Trần Thị Việt H bị chiếm đoạt tổng số tiền 1.195.000.000 đồng (một tỷ một trăm chín mươi lăm triệu đồng); trong đó:

- Nguyễn Thị D chiếm đoạt số tiền 451.000.000 đồng (bốn trăm năm mốt triệu đồng), gồm:

+ Bà Hoa đưa tiền mặt cho D 335.000.000 đồng (ba trăm ba lăm triệu đồng);

+ Chuyển khoản cho Nguyễn Thị D thông qua tài khoản của ông Hoàng Quyết Chi số tiền 86.000.000 đồng (tám mươi sáu triệu đồng) và thông qua tài khoản của Đại Tuấn H (con của D) số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

- Nguyễn Thị Ng chiếm đoạt số tiền 732.000.000 đồng (bảy trăm ba mươi hai triệu đồng), gồm:

+ Bà H đưa tiền mặt cho Ngọn 254.000.000 đồng (hai trăm năm mươi bốn triệu đồng);

+ Gửi qua Ngân hàng vào tài khoản của Ng và Th số tiền 444.000.000 đồng (bốn trăm bốn mươi bốn triệu đồng);

+ Gửi vào tài khoản của Nguyễn Thị Th số tiền 34.000.000 đồng (ba mươi bốn triệu đồng).

- Bà Hoa đưa tiền mặt cho Lê Thị Thùy Dư số tiền 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng).

2. Bà Vũ Thị Hi bị chiếm đoạt tổng số tiền 1.316.000.000 đồng (một tỷ ba trăm mười sáu triệu đồng); trong đó:

- Nguyễn Thị Ng chiếm đoạt số tiền 800.000.000 đồng (tám trăm triệu đồng); gồm:

+ Bà Hi đưa tiền mặt cho Ng 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng).

+ Gửi qua Ngân hàng vào tài khoản của Ng 760.000.000 đồng (bảy trăm sáu mươi triệu đồng);

- Nguyễn Thị Th chiếm đoạt của bà Hi 10.000.000 đồng (mười triệu đồng); bà Hi gửi qua Ngân hàng vào tài khoản của Th.

- Nguyễn Thị D chiếm đoạt số tiền 506.000.000 đồng (năm trăm lẻ sáu triệu đồng); trong đó:

+ Bà Hi giao tiền mặt cho Du 55.000.000 đồng (năm mươi lăm triệu đồng);

+ Gửi qua Ngân hàng vào tài khoản của Đại Tuấn H 55.000.000 đồng (năm mươi lăm triệu đồng).

+ Gửi qua Ngân hàng vào tài khoản của ông Hoàng Quyết Chi 396.000.000 đồng (ba trăm chín sáu triệu đồng).

3. Ông Lương Viết C bị chiếm đoạt tổng số tiền 385.000.000 đồng (ba trăm tám mươi lăm triệu đồng); trong đó:

- Gửi qua tài khoản ngân hàng của Nguyễn Thị Ng và bị Ng chiếm đoạt số tiền 33.000.000 đồng (ba mươi ba triệu đồng).

- Nguyễn Thị D chiếm đoạt số tiền 352.000.000 đồng (ba trăm năm mươi hai triệu đồng), gồm:

+ Đưa tiền mặt cho Nguyễn Thị D số tiền 157.000.000 đồng (một trăm năm mươi bảy triệu đồng).

+ Chuyển vào tài khoản Ngân hàng thông qua tài khoản của ông Hoàng Quyết Ch số tiền 110.000.000 đồng (một trăm mười triệu đồng).

+ Chuyển vào tài khoản Ngân hàng thông qua tài khoản của Đại Tuấn H (con của D) số tiền 85.000.000 đồng (tám mươi lăm triệu đồng).

4. Bà Trần Thị T H bị chiếm đoạt tổng số tiền 924.200.000 đồng (chín trăm hai mươi bốn triệu hai trăm ngàn đồng), trong đó:

- Nguyễn Thị Ng chiếm đoạt 709.100.000 đồng (bảy trăm lẻ chín triệu một trăm ngàn đồng), gồm:

+ Gửi vào tài khoản của Ng: 194.100.000 đồng (một trăm chín mươi bốn triệu một trăm ngàn đồng).

+ Đưa tiền mặt cho Ng: 425.000.000 đồng (bốn trăm hai mươi lăm triệu đồng).

+ Gửi tiền qua bưu điện Viettel: 90.000.000 đồng (chín mươi triệu đồng).

- Nguyễn Thị Th chiếm đoạt số tiền 214.900.000 đồng (hai trăm mười bốn triệu chín trăm ngàn đồng), gồm:

+ Gửi vào tài khoản Ngân hàng của Th (trước khi Ng bị bắt) 150.400.000 đồng (một trăm chín mươi bốn triệu một trăm ngàn đồng).

+ Gửi tiền qua bưu điện Viettel 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

+ Gửi vào tài khoản ngân hàng của Th (sau khi Ngọn bị bắt) 39.500.000 đồng (ba mươi chín triệu năm trăm ngàn đồng).

- Đưa tiền mặt cho Lê Thị Thùy Dư 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) sau khi Ngọn bị bắt.

5. Bà Bùi Thị M D bị chiếm đoạt tổng số tiền 1.972.000.000 đồng (một tỷ chín trăm bảy mươi hai triệu đồng), trong đó:

- Nguyễn Thị Ng chiếm đoạt 1.500.000.000 đồng (một tỷ năm trăm triệu đồng), gồm:

+ Gửi vào tài khoản Ngân hàng của Ng 430.000.000 đồng (bốn trăm ba mươi triệu đồng).

+ Đưa tiền mặt cho Ng 820.000.000 đồng (tám trăm hai mươi triệu đồng).

+ Gửi tiền qua bưu điện Viettel 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

+ Chuyển khoản qua ATM 225.000.000 đồng (hai trăm hai mươi lăm triệu đồng).

- Nguyễn Thị Th chiếm đoạt 333.000.000 đồng (ba trăm ba mươi ba triệu đồng), bằng hình thức gửi vào tài khoản Ngân hàng và chuyển qua ATM cho Th, cụ thể:

+ Trước khi Ng bị bắt 297.000.000 đồng (hai trăm chín mươi bảy triệu đồng).

+ Sau khi Ng bị bắt 36.000.000 đồng (ba mươi sáu triệu đồng).

- Lê Thị Thùy Dư chiếm đoạt (sau khi Ng bị bắt): 71.000.000 đồng (bảy mươi mốt triệu đồng), gồm:

+ Gửi vào tài khoản Ngân hàng cho Dư: 5.000.000 đồng (năm triệu đồng).

+ Đưa tiền mặt cho Dư: 36.000.000 đồng (ba mươi sáu triệu đồng).

+ Chuyển khoản qua ATM của Dư 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

- Nguyễn Thị D chiếm đoạt số tiền 68.000.000 đồng (sáu mươi tám triệu đồng), gồm:

+ Gửi vào tài khoản ngân hàng của Nguyễn Thị Th (con dâu của Nguyễn Thị D) 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).

+ Đưa tiền mặt cho D 58.000.000 đồng (năm mươi tám triệu đồng).

6. Bà Lê Thị Thanh T bị chiếm đoạt tổng số tiền 413.000.000 đồng (bốn trăm mười ba triệu đồng), trong đó:

- Đưa tiền mặt và bị Nguyễn Thị Ng chiếm đoạt 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng).

- Nguyễn Thị Th chiếm đoạt 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) do gửi vào tài khoản ngân hàng cho Th

- Nguyễn Thị D chiếm đoạt số tiền 396.000.000 đồng (ba trăm chín mươi sáu triệu đồng), gồm:

+ Gửi vào tài khoản Ngân hàng cho D thông qua tài khoản của ông Hoàng Quyết Chi số tiền 346.000.000 đồng (ba trăm bốn muơi sáu triệu đồng).

+ Gửi vào tài khoản Ngân hàng thông qua tài khoản của Đại Tuấn H (con của D): 20.000.000 đồng (hai muơi triệu đồng).

+ Đưa tiền mặt cho D: 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

7. Ông Hoàng Quyết Chi bị chiếm đoạt tổng số tiền 700.000.000 đồng (bảy trăm triệu đồng), bằng hình thức gửi tiền vào tài khoản ngân hàng của Nguyễn Thị Ng và Nguyễn Thị Th.

Số tiền các bị hại chuyển vào tài khoản của ông Hoàng Quyết Chi, sau đó ông Chi đã chuyển toàn bộ số tiền này vào tài khoản của Nguyễn Thị Th.

Ngoài ra, với hình thức và thủ đoạn nêu trên, Ng và Th còn chiếm đoạt tiền của nhiều người nhưng những người này cho Th và Ng mượn tiền không làm giấy tờ nên không có căn cứ tố giác. Nguyễn Thị Ng cũng khai nhận có mượn tiền của nhiều người khác nhưng không rõ nhân thân thân lai lịch cụ thể nên Cơ quan điều tra không đủ thông tin để xác minh xử lý.

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Ng khai: Toàn bộ số tiền Ng chiếm đoạt được từ các bị hại, Ngọn đã chuyển vào tài khoản của Th, còn Th sử dụng số tiền này vào mục đích gì thì Ng không biết. Qua xác minh tài khoản của Th tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh huyện D T, tỉnh Bình Dương thì từ ngày 21/01/2015 đến ngày 19/11/2015, Ng đã chuyển khoản số tiền 2.732.650.000 đồng (hai tỷ bảy trăm ba mươi hai triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng) và chuyển tiền mặt số tiền 1.225.100.000 đồng (một tỷ hai trăm hai mươi lăm triệu một trăm ngàn đồng). Tổng cộng: 3.957.750.000 đồng (ba tỷ chín trăm năm mươi bảy triệu bảy trăm năm mươi ngàn) và Th đã rút ra hết. Quá trình điều tra, thu giữ của Nguyễn Thị Ng 01 thẻ nhựa số 9704 0507 4947 6060 của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AGRIBANK) có chữ nổi NGUYEN THI NG (thẻ ATM).

Nguyễn Thị Th không thừa nhận việc quen biết và vay mượn tiền của các bị hại, do vậy không xác định được toàn bộ số tiền mà D, Ng và các bị hại đã chuyển vào tài khoản của Th sau đó Th đã sử dụng vào mục đích gì nên không thu hồi được.

Quá trình điều tra, bà Trần Thị T H cung cấp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương dữ liệu ghi âm các cuộc đàm thoại giữa bà T H và bà D với Th và Ng.

Ngày 20/07/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương trưng cầu Viện khoa học hình sự Bộ Công an giám định giọng nói trong các dữ liệu ghi âm các cuộc đàm thoại do bà T H cung cấp để so sánh với mẫu giọng nói của Nguyễn Thị Th, Nguyễn Thị Ng và mẫu giọng nói của bà T Hg và bà D.

Bản Kết luận giám định số 3239/C54(P6) ngày 30/08/2016 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận như sau:

Tiếng nói của người phụ nữ được gọi là “Th” và xưng là “chị” trong mẫu cần giám định (ký hiệu “Th” trong bản dịch nội dung file ghi âm cần giám định) và tiếng nói của Nguyễn Thị Th trong mẫu so sánh là của cùng một người;

- Tiếng nói của người phụ nữ được gọi là “Ng” và xưng là “chị” trong mẫu cần giám định (ký hiệu “Ng” trong bản dịch nội dung file ghi âm cần giám định) và tiếng nói của Nguyễn Thị Ng trong mẫu so sánh là của cùng một người;

- Tiếng nói của người phụ nữ được gọi là “D” và xưng là “em” trong mẫu cần giám định (ký hiệu “D” trong bản dịch nội dung file ghi âm cần giám định) và tiếng nói của Bùi Thị M D trong mẫu so sánh là của cùng một người;

- Tiếng nói của người phụ nữ được gọi là “H” và xưng là “em” trong mẫu cần giám định (ký hiệu “H” trong bản dịch nội dung file ghi âm cần giám định) và tiếng nói của Trần Thị T H trong mẫu so sánh là của cùng một người.”

Qua kết quả giám định các đoạn ghi âm thể hiện nội dung Th và Ng nhiều lần đưa ra thông tin không có thực để yêu cầu các bị hại T H và M D chuyển tiền cho Th và Ng. Th và Ng cam kết rất nhiều lần “ngày mai” sẽ rút được tiền từ Ngân hàng đồng thời cam kết sẽ trả tiền gốc và bồi dưỡng cho bà M D số tiền 28.000.000.000 đồng (hai mươi tám tỷ đồng), bồi dưỡng cho bà T H số tiền 15.000.000.000 đồng (mười lăm tỷ đồng)....nhưng sau đó không trả lại số tiền đã vay.

Đối với Nguyễn Thị D và Lê Thị Thùy Dư là đồng phạm với các bị cáo Th và Ng đã trực tiếp thực hiện hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tiền của các bị hại. Quá trình điều tra, D và Dư không có mặt ở địa phương, hiện nay không biết làm gì, ở đâu; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương đã ra quyết định khởi tố bị can và ra quyết định truy nã, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2018/HSST ngày 16 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương, quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Ng, Nguyễn Thị Th phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Th 17 (mười bảy) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày 27/9/2016.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; điểm p khoản 1, Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ng 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày 05/12/2015.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 591 của Bộ luật Dân sự năm 2015:

- Buộc bị cáo Nguyễn Thị Th có trách nhiệm thanh toán cho những người bị hại tổng số tiền là 1.091.250.000 đồng, cụ thể như sau:

+ Bị cáo Nguyễn Thị Th có trách nhiệm hoàn trả cho bà Vũ Thị Hi số tiền là 10.000.000 đồng (mười triệu đồng);

+ Bị cáo Nguyễn Thị Th có trách nhiệm hoàn trả cho bà Trần Thị T H số tiền là 214.900.000 đồng (hai trăm mười bốn triệu chín trăm ngàn đồng).

+ Bị cáo Nguyễn Thị Th có trách nhiệm hoàn trả cho bà Bùi Thị M D số tiền là 333.000.000 đồng (ba trăm ba mươi ba triệu đồng).

+ Bị cáo Nguyễn Thị Th có trách nhiệm hoàn trả cho bà Lê Thị Thanh T số tiền là 10.000.000 đồng (mười triệu đồng)

+ Bị cáo Nguyễn Thị Th có trách nhiệm hoàn trả cho ông Hoàng Quyết Chi số tiền là 523.350.000 đồng (năm trăm hai mươi ba triệu ba trăm năm mươi ngàn đồng).

- Buộc bị cáo Nguyễn Thị Ng có trách nhiệm thanh toán cho những người bị hại tổng số tiền là 3.957.750.000 đồng, cụ thể như sau:

+ Bị cáo Nguyễn Thị Ng có trách nhiệm hoàn trả cho bà Trần Thị Việt H số tiền là 732.000.000 đồng (bảy trăm ba mươi hai triệu đồng);

+ Bị cáo Nguyễn Thị Ng có trách nhiệm hoàn trả cho bà Vũ Thị Hi số tiền là 800.000.000 đồng (tám trăm triệu đồng);

+ Bị cáo Nguyễn Thị Ng có trách nhiệm hoàn trả cho ông Lương Viết c số tiền là 33.000.000 đồng (ba mươi ba triệu đồng).

+ Bị cáo Nguyễn Thị Ng có trách nhiệm hoàn trả cho bà Trần Thị T H số tiền là 709.100.000 đồng (bảy trăm lẻ chín triệu một trăm ngàn đồng);

+ Bị cáo Nguyễn Thị Ng có trách nhiệm hoàn trả cho bà Bùi Thị M D số tiền là 1.500.000.000 đồng (một tỷ năm trăm triệu đồng);

+ Bị cáo Nguyễn Thị Ng có trách nhiệm hoàn trả cho bà Lê Thị Thanh T số tiền là 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng);

+ Bị cáo Nguyễn Thị Ng có trách nhiệm hoàn trả cho ông Hoàng Quyết Chi số tiền là 176.650.000 đồng (một trăm bảy mươi sáu triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về việc thi hành án, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định

Ngày 21/11/2018, bị cáo Nguyễn Thị Ng kháng cáo kêu oan.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Thị Ng kháng cáo cho rằng số tiền nhận của bị hại đã giao lại cho Nguyên Thị Th, bản thân bị cáo Ng không được hưởng tiền, đề nghị xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát trình bày:

Căn cứ tài liệu có tại hồ sơ vụ án, bị cáo Ng đã giúp sức cho Th lừa đảo, tuy bị cáo Ng không hưởng tiền nhưng với vai trò đồng phạm, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 14 năm tù là có căn cứ, đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, y án sơ thẩm về tội danh và hình phạt.

Về phần trách nhiệm dân sự: Toàn bộ số tiền bị cáo Ng nhận của các bị hại, Ng không hưởng đồng nào mà chuyển toàn bộ cho Nguyễn Thị Th qua tài khoản ngân hàng là 3.957.750.000 đồng, đề nghị sửa phần dân sự, buộc Nguyễn Thị Th có trách nhiệm bồi thường cho các bị hại số tiền này.

Luật sư bào chữa cho bị cáo:

Cơ quan điều tra chưa chứng minh được hành vi lừa đảo đối với Ng, bởi vì số tiền 3.957.750.000 đồng, Ng đã chuyển cho Th, Th là người trực tiếp chiếm đoạt, bị cáo Ng không tư lợi, không chiếm đoạt tiền của các bị hại. Về số tiền của các bị hại cũng chưa làm rõ như trường hợp của Trần Thị Việt H. Đề nghị xem xét lại toàn diện vụ án, tuyên bố Nguyễn Thị Ng không phạm tội, trả tự do cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo Nguyễn Thị Th 17 năm tù, Nguyễn Thị Ng 14 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo Nguyễn Thị Ng xin xem xét lại hành vi phạm tội, số tiền bồi thường. Bị cáo Nguyễn Thị Th, các bị hại không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là Nguyễn Thị D, Lê Thị Thùy Dư, Nguyễn Thị Th, Nguyễn Thị Ng đưa ra thông tin có dự án, cần tiền “bôi trơn”, các bị hại tin và giao tiền cho D, Dư, Th, Ng. Trong vụ án này, cấp sơ thẩm chỉ truy tố, xét xử đối với Nguyễn Thị Th, Nguyễn Thị Ng; đối với Nguyễn Thị D, Lê Thị Thùy Dư, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương đã khởi tố bị can, truy nã, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

[2] Xét; Nguyễn Thị Th là người chủ mưu, trực tiếp và thông qua Nguyễn Thị Ng đưa ra thông tin dự án không đúng sự thật, lừa các bị hại, theo đó, Nguyễn Thị Th nhận của các bị hại 5.049.000.000 đồng (Nguyễn Thị Th nhận trực tiếp 1.091.250.000 đồng, nhận do Nguyễn Thị Ng chuyển qua ngân hàng 3.957.750.000 đồng). Các tài liệu của cấp sơ thẩm điều tra thể hiện Nguyễn Thị Th là chủ mưu, thông qua Nguyễn Thị Ng là người trực tiếp nhận tiền của các bị hại, sau đó Ng chuyển toàn bộ số tiền nhận của các bị hại 3.957.750.000 đồng vào TK của Nguyễn Thị Th tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Chi nhánh D T (Bình Dương), số tiền trên Thoa rút ra sử dụng (BL 502 - 512). Như vậy, hành vi của Nguyễn Thị Ng là đồng phạm, toàn bộ số tiền Ng đều chuyển cho Th nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Ngọn 14 năm tù, Thoa 17 năm tù là chưa phù hợp, Th không bị kháng cáo, kháng nghị; việc áp dụng thêm tình tiết tăng nặng là không đúng vì tổng số tiền bị truy tố đã thu hút định lượng tại khoản 4 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999. Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của Nguyễn Thị Ng, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Nguyễn Thị Ng nhận tiền của các bị hại chuyển hết số tiền cho Nguyễn Thị Th thông qua ngân hàng. Ngoài số tiền Th nhận trực tiếp của các bị hại 1.091.250.000 đồng, Th còn chịu trách nhiệm liên đới đối với số tiền 3.957.750.000 đồng, Nguyễn Thị Th là người chịu trách nhiệm bồi thường trước toàn bộ số tiền 3.957.750.000 đồng. Trong trường hợp khi thi hành án, Nguyễn Thị Th không có tiền bồi thường thì phát sinh nghĩa vụ liên đới đối với Nguyễn Thị Ng.

Phần trách nhiệm dân sự của Nguyễn Thị Th đối với số tiền 1.091.250.000 đồng, không bị kháng cáo kháng nghị có hiệu lực theo bản án sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thị Ng không phải chịu án phí hình sự và dân sự phúc thẩm.

Sửa phần án phí dân sự sơ thẩm đối với Nguyễn Thị Ng và Nguyễn Thị Th.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận một phần kháng cáo của Nguyễn Thị Ng;

Căn cứ khoản 2 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; sửa một phần bản án sơ thẩm;

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; điểm p khoản 1; khoản 2 Điều 46 (Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009);

Xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Thị Ng, 12 (mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 05/12/2015.

Sửa phần trách nhiệm dân sự của Nguyễn Thị Ng như sau:

Buộc Nguyễn Thị Th, Nguyễn Thị Ng chịu trách nhiệm liên đới bồi thường cho các bị hại tổng số tiền 3.957.750.000 (Ba tỷ, chín trăm năm mươi bảy triệu, bảy trăm năm mươi ngàn) đồng; Nguyễn Thị Th có trách nhiệm bồi thường trước số tiền 3.957.750.000 đồng cho các bị hại cụ thể sau:

Bà Trần Thị Việt H: 732.000.000 (Bảy trăm, ba mươi hai triệu) đồng;

Bà Vũ Thị Hi: 800.000.000 (Tám trăm triệu) đồng;

Ông Lương Viết C: 33.000.000 (Ba mươi ba triệu) đồng;

Bà Trần Thị T H: 709.100.000 (Bảy trăm lẻ chín triệu, một trăm ngàn) đồng;

Bà Bùi Thị M D: 1.500.000.000 (Một tỷ, năm trăm triệu) đồng;

Bà Lê Thị Thanh T: 7.000.000 (Bảy triệu) đồng;

Ông Hoàng Quyết Chi: 176.650.000 (Một trăm bảy mươi sáu triệu, sáu trăm năm mươi ngàn) đồng;

Trách nhiệm liên đới của Nguyễn Thị Ng phát sinh bồi thường số tiền nêu trên khi Nguyễn Thị Th không có điều kiện thi hành án.

Giữ nguyên phần trách nhiệm dân sự của Nguyễn Thị Th đối với số tiền 1.091.250.000 đồng theo bản án sơ thẩm.

Nguyễn Thị Ng, Nguyễn Thị Th phải nộp án phí dân sự sơ thẩm (đối với số tiền 3.957.750.000 đồng) là 111.155.000 đồng; cụ thể:

- Nguyễn Thị Ng: 55.577.500 đồng;

- Nguyễn Thị Th: 55.577.500 đồng; Nguyễn Thị Th còn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 44.737.500 đồng (đối với số tiền 1.091.250.000 đồng).

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 447/2019/HS-PT ngày 07/08/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:447/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về