Bản án 444/2018/HNGĐ-ST ngày 16/04/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 444/2018/HNGĐ-ST NGÀY 16/04/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 402/2016/TLST-HN ngày 26 tháng 10 năm 2016 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 836/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 1558/2018/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lâm Ái Y, sinh năm 1985

Địa chỉ: số 203/26 đường Q, phường 3, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Lin, Te C, sinh năm 1962

Địa chỉ: Lầu 4, số 111, Lộ D, Khóm 019, phường Q, Thành phố T, huyện Đài Bắc, Đài Loan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 16/8/2016 và bản tự khai, nguyên đơn bà Lâm Ái Y trình bày:

Vào ngày 11/10/2004, bà và ông Lin, Te C có đăng ký kết hôn tại Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 1157/TLKH-BS. Sau khi kết hôn, bà theo chồng về Đài Loan sinh sống. Thời gian sống chung khoảng 8 tháng nhưng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng ngôn ngữ và quan điểm sống, khác biệt về văn hóa dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vả lẫn nhau. Tháng 6/2005, bà trở về Việt Nam sinh sống cho đến nay. Từ khi về Việt Nam, vợ chồng không liên lạc gì với nhau. Bà xác định cuộc hôn nhân không hạnh phúc, không thể tiếp tục đời sống chung nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: không có Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Bị đơn ông Lin, Te C cư trú ở Đài Loan, Tòa án thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp, đã gửi Văn bản thông báo về việc thụ lý và xét xử vụ án hôn nhân sơ thẩm số 95/UTTPDS-TA30 ngày 17/5/2017. Theo nôi dung tại Thông báo nêu trên thì thời gian mở phiên tòa lần 1 vào lúc 8g00 ngày 19/3/2018, thời gian mở phiên tòa lần 2 vào lúc 8g00 ngày 16/4/2018. Văn bản đã được Bộ Tư pháp gửi đến Bộ Tư pháp Lãnh thổ Đài Loan ngày 14/7/2017. Cơ quan có thẩm quyền của lãnh thổ Đài Loan đã thực hiện ủy thác tư pháp nêu trên vào ngày 20/9/2017 bằng phương thức gửi hồ sơ ủy thác tư pháp tại đồn Công an. Đến nay, Tòa án không nhận được lời khai, tài liệu, chứng cứ của ông Lin, Te C; đến ngày mở phiên tòa ông Lin, Te C không có mặt.

Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Lâm Ái Y có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn ông Lin, Te C vắng mặt.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của tố tụng dân sự về thụ lý vụ án, thủ tục ủy thác tư pháp, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu và thủ tục xét xử vắng mặt tại phiên tòa.

- Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Lâm Ái Y được ly hôn ông Lin, Te C. Con chung: không có. Tài sản chung không có gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn bà Lâm Ái Y đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; bị đơn ông Lin, Te C cư trú tại lãnh thổ Đài Loan; giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 465; Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122, Điều 123 và Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Tại phiên tòa sơ thẩm: Nguyên đơn bà Lâm Ái Y có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn ông Lin, Te C vắng mặt đến lần thứ 2. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

Bà Lâm Ái Y và ông Lin, Te C tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2004, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn vào Sổ đăng ký kết hôn số 3083, quyển số 11 ngày 11/10/2004 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (bản chính giấy chứng nhận kết hôn đã bị thất lạc). Như vậy hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của bà Lâm Ái Y thì sau khi kết hôn bà theo chồng về sống ở lãnh thổ Đài Loan. Trong thời gian sống chung chỉ khoảng 8 tháng nhưng giữa vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng bất đồng ngôn ngữ và quan điểm sống, do khác biệt về văn hóa, có xảy ra cãi vả dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt. Tháng 6/2005, một mình bà quay trở về Việt Nam sinh sống. Từ đó cho đến nay vợ chồng không còn liên lạc với nhau nữa. Bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục cuộc hôn nhân được nữa và có yêu cầu ly hôn.

Xét, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau, không tạo được điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng, mâu thuẫn giữa vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Xét, đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ nên Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà Lâm Ái Y.

Về con chung: bà Y khai không có.

Về tài sản chung và nợ chung: lời khai của bà Y xác định không có. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 200.000 đồng nguyên đơn chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 465; Điều 469; Điều 474; Điều 477; Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án ;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lâm Ái Y được ly hôn ông Lin, Te C.

Giấy chứng nhận kết hôn vào Sổ đăng ký kết hôn số 3083, quyển số 11 ngày 11/10/2004 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: bà Y khai không có.

3. Về tài sản chung và nợ chung: bà Y khai không có.

Nếu có tranh chấp con chung, tài sản chung và nợ chung, các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 200.000 đồng bà Lâm Ái Y nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 200.000 đồng bà Lâm Ái Y đã nộp tại Biên lai thu số 0031239 ngày 28/9/2016 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, bà Lâm Ái Y đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Lâm Ái Y và bị đơn ông Lin, Te C; bà Lâm Ái Y được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, ông Lin, Te C được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 444/2018/HNGĐ-ST ngày 16/04/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:444/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về