Bản án 442/2020/HS-PT ngày 09/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 442/2020/HS-PT NGÀY 09/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 367/2020/TLPT-HS ngày 07/8/2020 đối với bị cáo Huỳnh Công A, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2020/HSST ngày 29/06/2020 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo kháng cáo:

Huỳnh Công A; Sinh ngày 16/01/1982 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký thường trú: Số 6N/26 đường C, Phường D, quận E, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: F và bà H; Chưa có vợ và con; Tiền án: Ngày 28 tháng 9 năm 2017, Toà án nhân dân quận E, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo bản án số 204/2017/HSST; Tiền sự: không; Bị bắt, tạm giam từ ngày 11/02/2020 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 50 phút ngày 11/02/2020, Huỳnh Công A điều khiển xe mô tô biển số 64D1-377.51 đến một con hẻm trên đường Bùi Viện, phường Phạm Ngũ Lão, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh gặp một người thanh niên mua một gói ma tuý với giá 2.500.000 đồng. A mang ma túy về nhà sử dụng một ít, số còn lại A cất giữ trong túi quần đang mặc. Khi A điều khiển xe biển số 64D1-377.51 đến giao lộ Võ Văn Kiệt – Cầu Calmette, phường Nguyễn Thái Bình, Quận B thì bị các anh trinh sát đội CSĐTTP về ma tuý Công an Quận B đi tuần tra phát hiện, yêu cầu A dừng xe để kiểm tra. Lúc này A tự lấy trong túi quần bên phải, phía sau một tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng có dán keo hai mặt, bên trong chứa tinh thể không màu, A khai là ma tuý. Do đó các anh trinh sát đưa A và vật chứng về phường Nguyễn Thái Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, sau đó chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận B để xử lý.

Qua khám xét nơi ở của Huỳnh Công A tại địa chỉ số 6N/26 đường G, Phường D, quận E, phát hiện và thu giữ trong phòng ngủ của A 01 hộp gỗ màu đen bên trong có 01 hộp kim loại đựng 01 gói nylon chứa tinh thể không màu; 02 ống thuỷ tinh.

Kết luận giám định số 303/KLGĐ-H ngày 20/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chứ ký ghi tên Huỳnh Công A và hình dấu Công an Phường D, quận E có khối lượng 3,9321 gam, không tìm thấy ma tuý.

Theo Bản kết luận giám định số 304/KLGĐ-H ngày 20/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 gói được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Huỳnh Công A và hình dấu Công an phường Nguyễn Thái Bình, Quận B bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu để trong một tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng có khối lượng 4,9661 gam là ma tuý ở thể rắn loại Methamphetamine.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 85/2020/HSST, ngày 29/6/2020 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Huỳnh Công A 5 (Năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/02/2020; phạt bị cáo 5.000.000 đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, tuyên nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo của bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, vào ngày 09/7/2020 bị cáo Huỳnh Công A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Huỳnh Công A khai nhận đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Bản án sơ thẩm đã mô tả, bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm mà bị cáo Huỳnh Công A thực hiện đã nhận định mức án 5 năm tù mà cấp sơ thẩm đã áp dụng là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có điều kiện hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định phù hợp với quy định tại Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai nhận đã có hành vi cất giữ 4,9661gam ma túy loại Methamphetamine trong túi quần của bị cáo và bị tổ trinh sát đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang tại giao lộ Võ Văn Kiệt – cầu Calmette. Do đó Bản án sơ thẩm kết tội bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ, đúng tội.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo có 1 tiền án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới do cố ý nên thuộc trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm”; cấp sơ thẩm áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, là có căn cứ, đúng luật. Mức án 5 năm tù mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội bị cáo gây ra. Tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không có căn cứ để giảm án cho bị cáo.

[4] Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo qui định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Công A; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2020/HSST, ngày 29/6/2020 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Huỳnh Công A 5 (Năm) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 11/02/2020.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Huỳnh Công A phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 442/2020/HS-PT ngày 09/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:442/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về