Bản án 44/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

 BẢN ÁN 44/2021/HS-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:40/2021/TLST-HS, ngày 29 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2021/QĐXXST-HS, ngày 12 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Huỳnh Thị Thùy N, sinh ngày 26/10/2003 tại huyện T, tỉnh Kiên Giang. Nơi cư trú: ấp Q, xã A, huyện T, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: nhân viên xoa bóp; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Phước H và bà Nguyễn Thị Q; bị cáo chưa có chồng, con; tiền án, tiền sự không; nhân thân: Nhỏ đến lớn sống chung với cha mẹ, đi học hết lớp 9 thì nghỉ học; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cứ trú từ ngày 03/02/2021 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Huỳnh Thị Thùy N:

1. Ông Huỳnh Phước H, sinh năm 1982. (Vắng mặt)

2. Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1982. (Có mặt) Cùng cư trú: ấp Q, xã A, huyện T, tỉnh Kiên Giang.

- Người bào chữa cho bị cáo Huỳnh Thị Thùy N: Ông Hà Quang V - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh An Giang. (Có mặt) mặt)

- Bị hại: Ông Nguyễn Thanh L, sinh năm 1977 Cư trú: đường H, khóm T, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang. (Vắng - Người làm chứng: Ông Trần Hà D, bà Phan Thị Quỳnh H. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 10 tháng 11 năm 2020, ông Nguyễn Thanh L đến dịch vụ massage T thuộc phường M, thành phố L để massage và được quản lý phân công Huỳnh Thị Thùy N thực hiện massage cho ông. Trong lúc massage, khi thấy ông L ngủ say và trên tay trái có đeo chiếc nhẫn vàng 18K đính đá kim cương nên N đã lén lút tháo chiếc nhẫn trên tay ông L bỏ vào túi quần bên phải của N, sau đó để váo túi xách và mang về phòng trọ cất giấu. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, ông L thức dậy phát hiện chiếc nhẫn bị mất nên đến Công an phường M trình báo. Đến ngày 11 tháng 11 năm 2020, N đầu thú và giao nộp chiếc nhẫn.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 chiếc nhẫn vàng 18K, trọng lượng 5C20 có đính 10 hột đá kim cương (bút lục số 02, 03).

Kết luận về việc xác định giá trị tài sản số 259/KL.HĐ ngày 25 tháng 12 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố L xác định: 01 chiếc nhẫn vàng 18K, trọng lượng 5C20 có đính 10 hột đá kim cương trị giá 64.724.000 đồng (bút lục số 43).

Cáo trạng số: 38/CT-VKS, ngày 28/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, truy tố Huỳnh Thị Thùy N về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Thùy N từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Thanh L đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét đến.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Thị Thùy N khai nhận: Khi thấy ông L ngủ say trên tay có đeo chiếc nhẫn vàng 18K nên đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như nội dung cáo trạng truy tố. Bị cáo không tranh luận với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng đã ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm: Thống nhất về tội danh không tranh luận. Về tình tiết giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; không tiền án tiền sự; học vấn thấp, thuộc thành phần lao động nghèo; gia đình có ông bà là người có công với Cách mạng, được Nhà nước tặng huân chương kháng chiến; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên đề nghị áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự 2015 và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cho bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của Viện kiểm sát.

Bị hại Nguyễn Thanh L vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra, trình bày: Khoảng 19 giờ ngày 10/11/2020, ông đến tiệm massage T để massage, trong lúc massage ông ngủ quên, khi thức dậy ra phòng thay quần áo thì phát hiện chiếc nhẫn bị mất nên đến Công an phường trình báo. Ông đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường thiệt hại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra thành phố L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không kêu oan, không khiếu nại cũng không có ý kiến về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Tại phiên tòa, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng bị hại và người làm chứng vắng mặt. Đại diện Viện kiểm sát có ý kiến về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng không ảnh hưởng đến việc xét xử và đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án. Xét thấy, quá trình điều tra đã thu thập đầy đủ lời khai của những người tham gia tố tụng nên việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.

[3] Về trách nhiệm hình sự:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp lời trình bày của bị hại, người làm chứng và còn phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ. Đủ căn cứ xác định bị cáo Huỳnh Thị Thùy N đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của ông Nguyễn Thanh L; tài sản chiếm đoạt là 01 chiếc nhẫn vàng 18K, trọng lượng 5C20 có đính 10 hột đá kim cương trị giá 64.724.000 đồng. Hành vi của bị cáo N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

[4] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Mặc dù khi thực hiện hành vi bị cáo chưa đủ 18 tuổi, nhưng bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo thể hiện sự liều lĩnh, xem thường pháp luật, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, tuân thủ pháp luật, đồng thời răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo có nhân thân tốt và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại nên thiệt hại xảy ra không lớn; bị cáo đầu thú và bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, nên Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xét thấy, bị cáo nhất thời phạm tội, không có sự chuẩn bị trước; có nơi cư trú rõ ràng; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và trong thời gian bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, cuộc sống của bị cáo đã ổn định. Để tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa sai lầm và góp phần phụ giúp cho gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà cho bị cáo được miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện và phải chịu thời gian thử thách dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo là người dưới 18 tuổi nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Thanh L đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên không xét đến.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Thị Thùy N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào: điểm c khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Điều 136; Điều 292; Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Thị Thùy N 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án (ngày 31 tháng 5 năm 2021) .

Giao bị cáo Huỳnh Thị Thùy N cho Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh Kiên Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự 2019.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2] Về án phí: Bị cáo Huỳnh Thị Thùy N phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[3] Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo có mặt, người bào chữa cho bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị cáo vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 44/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:44/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về