Bản án 44/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 44/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 339/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Thái Thúy A, sinh năm 1990 (có mặt).

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1991 (vắng mặt). Cùng cư trú: Ấp T, xã R, huyện P, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 07/12/2020, các văn bản kèm theo và tại phiên tòa bà Thái Thúy A trình bày:

Về hôn nhân: Năm 2015, bà Thái Thúy A và ông Nguyễn Văn T chung sống với nhau như vợ chồng có đăng ký kết hôn. Trong thời gian chung sống thì bà và ông T thường xuyên cãi vả, phát sinh nhiều mâu thuẫn trong lối sống, bất đồng quan điểm, nhiều lần ông T đánh đập bà. Bà xác định là bà không còn tình cảm dành cho ông T. Do mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, nên bà không thể đoàn tụ gia đình với ông T, nay bà A yêu cầu Tòa án xét xử cho bà ly hôn ông Nguyễn Văn T.

Về con chung: Có hai người con chung tên Nguyễn Thái T1, sinh ngày 20/3/2016 và Nguyễn Thái P, sinh ngày 11/9/2019. Hiện nay hai người con chung đang chung sống với bà. Khi ly hôn bà yêu cầu được nuôi dưỡng cả hai người con, bà A không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đồng thời triệu tập xét xử nhiều lần nhưng ông T vẫn không tham gia tố tụng.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:

Thẩm phán xác định đúng quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết, tư cách tham gia tố tụng của các đương sự trong vụ án. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Về nội dung, cụ thể về hôn nhân đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận cho bà Thái Thúy A ly hôn với ông Nguyễn Văn T; Về con chung: Có hai người con chung tên Nguyễn Thái T1, sinh ngày 20/3/2016 và Nguyễn Thái P, sinh ngày 11/9/2019. Từ trước đến nay hai người con chung vẫn chung sống với bà A, bà A yêu cầu nuôi cả hai người con nhưng ông T không có ý kiến gì nên tiếp tục giao cho bà A nuôi dưỡng là phù hợp. Bà A không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung không có, không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Vụ án tranh chấp ly hôn là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo lãnh thổ, được quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông T đã được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng nhiều lần, nhưng ông T không cung cấp chứng cứ gì, ông T vắng mặt không có lý do. Nay căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt là có căn cứ.

[2] Về hôn nhân: Năm 2015, bà Thái Thúy A và ông Nguyễn Văn T chung sống với nhau như vợ chồng và có đăng ký kết hôn tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Quá trình chung sống bà A và ông T phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Bà Thái Thúy A xác định không còn tình cảm dành cho ông Nguyễn Văn T. Nhận thấy, quan hệ hôn nhân của bà Thái Thúy A và ông Nguyễn Văn T đã trong tình trạng trầm trọng, đã không còn chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 4 năm 2020 cho đến nay mà không thể hòa giải hàn gắn được. Ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không tham gia tố tụng, thể hiện ông T không mong muốn hàn gắn đoàn tụ gia đình. Xét cho bà Thái Thúy A ly hôn với ông Nguyễn Văn T là có cơ sở.

[3] Về con chung: Có hai người con chung tên Nguyễn Thái T1, sinh ngày 20/3/2016 và Nguyễn Thái P, sinh ngày 11/9/2019. Để đảm bảo sự phát triển bình thường và từ trước đến nay vẫn chung sống với bà A, bà A yêu cầu nuôi cả hai người con nhưng ông T không có ý kiến gì nên tiếp tục giao cho bà A nuôi dưỡng là phù hợp. Bà A không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, nên không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Không có, nên không đặt ra xem xét.

[6] Từ những phân tích và nhận định nêu trên xét thấy quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên về hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung là có căn cứ nên được chấp nhận.

[7] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Thái Thúy A phải chịu theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 56, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng các điều 28, 35, 39 và 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho bà Thái Thúy A ly hôn với ông Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao Nguyễn Thái T1, sinh ngày 20/3/2016 và Nguyễn Thái P, sinh ngày 11/9/2019 cho bà Thái Thúy A tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Thái Thúy A phải chịu 300.000 đồng. Bà Thái Thúy A đã nộp tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng, theo biên lai thu tiền số 0012255 ngày 08/12/2020, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, nay chuyển thu.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:44/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về