Bản án 44/2021/HNGĐ-ST ngày 15/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 44/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 255/2021/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu T - Sinh năm: 1991 Địa chỉ: Tổ 1, khối TN, thị trấn PP, huyện TS, tỉnh Bình Định

- Bị đơn: Anh Trần Minh A - Sinh năm: 1985 Địa chỉ: Khối 1A, thị trấn PP, huyện TS, tỉnh Bình Định Nguyên đơn chị T có mặt, bị đơn anh A vắng mặt lần 02 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 29/4/2021 và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu T trình bày: Chị và anh Trần Minh A kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký giấy kết hôn vào ngày 17/7/2009 tại UBND thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Sau cưới vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 01/2010 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là anh A tính tình nóng nảy, thường xuyên uống rượu say xỉn về hành hạ chị cả thể xác lẫn tinh thần. Cuộc sống vô cùng ngột ngạt, tinh thần của chị lúc nào cũng trong trạng thái sợ hãi, vì vậy từ sau khi sinh con được 01 tháng chị T đã bồng con về nhà cha mẹ ruột ở từ tháng 6/2010 cho đến nay. Chị đã nhiều lần nhờ gia đình 02 bên để can thiệp nhưng vẫn không cứu vãn hạnh phúc, nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Minh A.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trần Nguyễn Quỳnh M (giới tính: Nữ), sinh ngày 30/4/2010, sức khỏe cháu bình thường, cháu M hiện đang ở với chị. Ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu M, còn nguyện vọng cháu muốn ở với ai quyền của cháu, chị không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Trần Minh A vắng mặt không có lý do:

Về các thủ tục giải quyết ly hôn đã được Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn đã triệu tập hợp lệ nhiều lần để làm việc về việc chị T xin ly hôn, nhưng anh A đều vắng mặt không có lý do và không có văn bản hoặc quan điểm gửi Tòa án, vì vậy Tòa án không biết quan điểm của anh A về những nội dung chị T yêu cầu Tòa án giải quyết, đồng thời Tòa án cũng không tiến hành hòa giải được, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn phát biểu việc tuân thủ pháp luật về tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm xét xử sơ thẩm. Tại phiên tòa sơ thẩm Thẩm phán và Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố dụng dân sự 2015. Bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ được quy định tại các Điều 70, Điều 72 của Bộ luật tố tụng Dân sự 2015.

- Về quan điểm giải quyết vụ án đề nghị: Căn cứ Điều 147, Điều 273 của Bộ luật tố tụng Dân sự 2015. Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thu T, cho chị T được ly hôn với anh Trần Minh A. Giao cháu Trần Nguyễn Quỳnh M (giới tính: Nữ), sinh ngày 30/4/2010 cho chị T nuôi dưỡng vì cháu M có nguyện vọng được ở với chị T, anh A không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị T không yêu cầu. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu, không xét. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Thu T có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn giải quyết vụ án hôn nhân vì anh Trần Minh A có nơi cư trú tại Khối 1A, thị trấn PP, huyện TS, tỉnh Bình Định. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn.

Về sự vắng mặt của bị đơn anh Trần Minh A đã được Tòa án niêm yết hợp lệ đến lần hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa và không có lý do, căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh A.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu T và anh Trần Minh A kết hôn vào ngày 17/7/2009 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký chứng nhận kết hôn tại UBND thị trấn Phú Phong, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau khi cưới vợ chồng chung sống với nhau tại nhà cha mẹ anh A, vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 01/2010 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Theo chị T trình bày: Nguyên nhân chính là anh A tính tình nóng nảy, thường xuyên uống rượu say xỉn về hành hạ chị cả thể xác lẫn tinh thần. Cuộc sống vô cùng ngột ngạt, tinh thần của chị lúc nào cũng trong trạng thái sợ hãi, nên từ tháng 6/2010 chị T đã bồng con về nhà cha mẹ ruột ở cho đến nay. Chị đã nhiều lần nhờ gia đình 02 bên để can thiệp nhưng vẫn không cứu vãn hạnh phúc, nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không ai quan tâm đến nhau nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Minh A.

Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ, tại biên bản xác minh ngày 07/7/2021 của Công an thị trấn Phú Phong hiện anh A có hộ khẩu ở tại tổ 1, khối 1A, thị trấn PP, huyện TS, tỉnh Bình Định, hiện anh A vẫn ở địa phương chưa chuyển khẩu đi đâu. Việc anh A không đến Tòa án làm việc, không có quan điểm gửi đến Tòa án chứng tỏ anh A không có trách nhiệm và xem trọng cuộc hôn nhân của chính mình. Tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh A đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 của luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T.

[2.2] Về con chung: Chị T và anh A có 01 con chung tên Trần Nguyễn Quỳnh M (giới tính: Nữ), sinh ngày 30/4/2010, cháu M hiện đang ở với chị T. Ly hôn chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu M và cháu M có nguyện vọng ở với chị T. Xét yêu cầu của chị T và nguyện vọng của cháu M. Hội đồng xét xử nghĩ nên giao cháu Trần Nguyễn Quỳnh M cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp, chị T nhận trách nhiệm nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh A cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của chị T nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa giải quyết nên không xét.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, và khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị Thu T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0006843 ngày 02/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn (đã nộp xong).

[4] Lời phát biểu ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tây Sơn tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của HĐXX.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

- Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử: 1. Chấp nhận đơn khởi kiện về việc xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Thu T.

2. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu T được ly hôn anh Trần Minh A.

3. Về con chung: Giao cháu Trần Nguyễn Quỳnh M (giới tính: Nữ), sinh ngày 30/4/2010 cho chị Nguyễn Thị Thu T tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, anh Trần Minh A không phải cấp dưỡng nuôi con, vì chị T không yêu cầu.

Anh A không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng nếu lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.

Vì lợi ích của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Chị T không yêu cầu, nên không xét.

5. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0006843 ngày 02/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 15/9/2021), bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2021/HNGĐ-ST ngày 15/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:44/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về