TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 44/2020/HS-ST NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 39/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. Trần Hậu L, sinh ngày 06 tháng 10 năm 1991. Nơi cư trú: Xóm 02, xã Đà Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Hậu Minh (Chết) và bà Nguyễn Thị Thu, sinh năm 1972; Vợ: Nguyễn Thị Phương Huyền, sinh năm 1995 (đã ly hôn), con: có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
+ Ngày 07/01/2011 bị Toà án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xử phạt 42 tháng tù về tội “cố ý gây thương tích”, đã chấp hành xong toàn bộ quyết định của bản án vào ngày 29/4/2013;
+ Ngày 29/11/2016 bị Toà án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xử phạt 15 tháng tù về tội “cưỡng đoạt tài sản”, đã chấp hành xong toàn bộ quyết định của bản án vào ngày 10/01/2017; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/01/2020 đến nay,hiện đang tạm giam, có mặt tại phiên tòa. 2. Lê Tùng Tr, sinh ngày 06 tháng 9 năm 1996. Nơi cư trú: Xóm 2, xã Đà Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Tùng Phúc, sinh năm 1964 và bà Trần Thị Lý, sinh năm 1967; Vợ: Hoàng Thị Ngọc Ánh, sinh năm 1996; con: Có 02 con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2019; tiền án: Ngày 28/11/2016 bị Toà án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 30 tháng về tội “cưỡng đoạt tài sản”, đã chấp hành xong toàn bộ quyết định của bản án vào ngày 15/02/2019; tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/01/2020 đến nay,hiện đang tạm giam, có mặt tại phiên tòa.
3. Nguyễn Quốc Th, sinh ngày 07 tháng 3 năm 1994. Nơi cư trú: Xóm 03, xã Đà Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quốc Liệu (Chết) và bà Đinh Thị Vân, sinh năm 1966; Vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/11/2019 đến nay,hiện đang tạm giam, có mặt tại phiên tòa.
*Người bị hại: Anh Trần Văn Nghĩa, sinh năm 1993; Trú tại: Xóm 8, xã Văn Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.(Có mặt)
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Văn Hiền, sinh năm 1958; Trú tại: Xóm 8, xã Văn Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.(Có mặt)
* Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Đăng Chung, sinh năm 1973; Trú tại: Xóm Yên Tr, xã Yên Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt).
2. Chị Thái Thị Hồng, sinh năm 1977; Trú tại: Xóm Yên Tr, xã Yên Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 14/10/2019 và ngày 16/10/2019, vợ chồng anh Trần Văn Nghĩa- sinh năm 1993, trú tại xóm 8, xã Văn Sơn, huyện Đô Lương đến nhà Thái Khắc Công- sinh năm 1976, trú tại xóm 14, xã Thịnh Sơn, huyện Đô Lương vay số tiền 43.000.000 đồng để làm ăn. Đến thời hạn thanh toán trả nợ nhưng vợ chồng anh Trần Văn Nghĩa chưa trả nên Thái Khắc Công đã đến nhà anh Nghĩa đe dọa mục đích để lấy lại số tiền đã cho vay. Do lo sợ việc anh Thái Khắc Công đến nhà đánh đập nên thông qua anh Nguyễn Hữu Ngọc- sinh năm 1989 trú cùng xóm và là bạn làm cơ khí với nhau, nên vào ngày 18/10/2019, anh Trần Văn Nghĩa mới biết Trần Hậu L và anh Trần Văn Nghĩa đã đến nhà Trần Hậu L để bàn chuyện làm ăn liên quan đến cơ khí. Trước lúc anh Trần Văn Nghĩa ra về, Trần Hậu L nói anh Nghĩa làm cho L một cái giường, một cánh cửa và hàng rào sắt, anh Nghĩa nhất trí.
Ngày 21/10/2019, do lo sợ Thái Khắc Công dọa nạt và đòi tiền tiếp, nên anh Trần Văn Nghĩa đã gọi điện thoại cho Trần Hậu L với mục đích nhờ L can thiếp với Thái Khắc Công đừng đến nhà dọa nạt vợ và để cho anh Nghĩa từ từ trả nợ cho Công và được Trần Hậu L đồng ý giúp. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Trần Hậu L đến tiệm cơ khí của anh Trần Văn Nghĩa ở xã tân Sơn, huyện Đô Lương và cùng vợ chồng anh Nghĩa đi đến nhà Thái Khắc Công để nói chuyện; nhờ do có Trần Hậu L can thiệp nên Thái Khắc Công đã đồng ý để vợ chồng anh Trần Văn Nghĩa trả nợ dần, sau đó mọi người ra về. Sau khi nhờ Trần Hậu L can thiệp xong chuyện nợ nần, anh Trần Văn Nghĩa có hỏi Trần Hậu L lấy bao nhiêu tiền công để trả nhưng Trần Hậu L nói là giúp vợ chồng anh Trần Văn Nghĩa.
Ngày 23/10/2019, do anh Trần Văn Nghĩa chưa đến làm giường, cửa và hàng rào nên Trần Hậu L đi một mình đến tiệm cơ khí của anh Trần Văn Nghĩa để hỏi lý do vì sao chưa làm thì được anh Trần Văn Nghĩa trả lời "Em đang khó khăn, chưa có tiền để mua vật liệu", nghe vậy Trần Hậu L nói "Cố gắng mà làm, có tý rứa mà bay không làm được" rồi L ra về.
Ngày 29/10/2019, anh Trần Văn Nghĩa làm xong giường, cửa và lên lắp cho Trần Hậu L. Xong Trần Hậu L hỏi anh Nghĩa "Khi nào làm xong hàng rào", anh Nghĩa trả lời "Giờ em không có tiền để mua vật liệu, anh có tiền mua vật liệu về em làm công cho" nghe vậy Trần Hậu L nói anh Nghĩa "Em về kê vật liệu hết bao nhiêu rồi gọi cho anh".
Ngày 30/10/2019, Trần Hậu L gọi điện cho anh Trần Văn Nghĩa để hỏi tiền vật liệu hết bao nhiêu thì anh Nghĩa trả lời hết 4.900.000 đồng; nghe vậy L nói đưa số liệu cụ thể để L tự đi mua vật liệu; đến trưa cùng ngày, anh Nghĩa gọi điện hỏi L đã có vật liệu chưa, L trả lời có rồi.
Ngày 31/10/2019, anh Trần Văn Nghĩa chở máy móc lên nhà Trần Hậu L để làm hàng rào nhưng không thấy vật liệu đâu nên anh Nghĩa hỏi L "Vật liệu chưa về hả anh". Với mục đích chiếm đoạt tài sản là chiếc giường, cánh cửa và hàng rào nên L đã mượn cớ là tiền công để ép anh Trần Văn Nghĩa làm hàng rào hoặc phải trả thêm 10.0000.000 đồng. Do vậy, L nói "Cái ni giờ mi phải lo toàn bộ, cái mi làm ở đây là tiền công mấy ngày tao xuống để lấy mác cho mi làm ăn, nói thẳng cho mi biết, mấy ngày tao xuống đó là 01( một) ngày là 1.000.000 đồng, tổng 10( mười) ngày là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng)". Do biết Trần Hậu L là một đối tượng có tiếng ngoài xã hội, nên anh Trần Văn Nghĩa nói với L"Giờ vợ chồng em khó khăn quá cho em ít ngày có em sẽ làm cho anh", nghe vậy L nói "Chiều mai là phải có hàng rào đưa lên đây rồi mới tính". Đến sáng ngày 03/11/2019, anh Nguyễn Hữu Ngọc đi một mình đến nhà Trần Hậu L để lấy máy móc về nhưng L không cho anh Ngọc lấy. Đến chiều cùng ngày, anh Trần Văn Nghĩa nhờ và đi cùng bà Oanh là mẹ của anh Nguyễn Hữu Ngọc vào nhà Trần Hậu L để nói chuyện và xin lấy máy về thì gặp Trần Hậu L và Lê Tùng Tr đang ở trong nhà L; thì L liền nói với anh Nghĩa "Giờ tao phải tính sổ với mi, tội mi to lắm", nghe vậy anh Nghĩa lo sợ và trả lời "Em xin lỗi, em không có tiền, tiệm đóng cửa ba ngày rồi, con em thì đang ốm", nghe vậy L nói "Tao không cần biết, giờ mi tính răng" rồi L và bà Oanh đi vào nhà để nói chuyện. Còn về phía Lê Tùng Tr có nghe L nói chuyện nợ nần tiền bạc gì đó nhưng không hiểu rõ việc nợ nần ra sao, nhưng vì muốn giúp L nên Lê Tùng Tr nói với anh Nghĩa "Mi giờ răng đó"( có nghĩa nói anh Nghĩa có trả tiền không), anh Nghĩa trả lời "Thật sự em không có tiền, em không biết chi hết"; nghe vậy, Lê Tùng Tr dùng tay tát nhiều cái vào mặt đồng thời dùng chân đạp vào người anh Nghĩa. Lúc này, Trần Hậu L đi trong nhà ra dùng tay chân đấm đá và bắt anh Nghĩa quỳ xuống và L nói "Mi ăn gan trời à, ai đưa mi xuống đây", anh Nghĩa trả lời "Em không biết chi cả, anh Ngọc giới thiệu xuống thì em xuống", L nói tiếp "10 triệu đó chia làm hai ngày, đúng 6 giờ ngày 05/11/2019 phải đưa 5 triệu, 5 triệu còn lại ngày tiếp theo đưa lên cho tao" nghe vậy anh Nghĩa trả lời "Dạ, em xin anh cho em về chứ tiền em không có". Xong anh Nghĩa đi về.
Đến khoảng 11 giờ 30 phút ngày 05/11/2019, Trần Hậu L điều khiển xe máy của gia đình chở theo Nguyễn Quốc Th đến tiệm cơ khí của anh Trần Văn Nghĩa ở xã Tân Sơn, huyện Đô Lương. Tại đây, có anh Nguyễn Đăng Chung-sinh năm 1973, trú tại xóm Yên Tr, xã Yên Sơn, huyện Đô Lương là thợ làm cho anh Nghĩa. Trần Hậu L gọi anh Nghĩa lại và nói "Giờ mi thích đưa tiền hay làm hàng rào, mi có nhớ bữa qua hứa răng không, loại mi tao đưa máy tao cắt tay khi mô là được khi nớ" rồi L dùng chân đạp vào máy và chưởi tục. Lúc này, Nguyễn Quốc Th đang nói chuyện với anh Nguyễn Đăng Chung ở gần đó và có nghe L nói chuyện với anh Nghĩa về vấn đề nợ nần tiền bạc gì đó, nhưng không hiểu nội dung gì và trước đó Nguyễn Quốc Th không biết L rủ xuống xưởng cơ khí của anh Nghĩa để làm gì. Do sợ bị L đánh nên anh Nghĩa đã gọi cha mình là ông Trần Văn Hiền-sinh năm 1958 xuống để nói chuyện với L. Một lúc sau, ông Trần Văn Hiền đi xe máy đến và nói với Trần Văn Nghĩa "Giờ không có chi nữa, còn chiếc xe máy muốn cắm thì cắm, muốn bán thì bán lấy tiền đưa cho họ" đồng thời đưa giấy tờ đăng ký xe máy cùng xe máy nhãn hiệu Wave RSX, sơn màu xanh, biển kiểm soát 37Z9-4741 của ông Trần Văn Hiền trao cho Trần Văn Nghĩa quản lý. Sau đó, Trần Hậu L và Nguyễn Quốc Th đi về, còn anh Nghĩa điều khiển xe máy cùng anh Nguyễn Đăng Chung đến nhà anh Chung ăn cơm. Ăn cơm xong, anh Nghĩa nhờ vợ chồng anh Chung đi cầm chiếc xe máy biển kiểm soát 37Z9-4741 để lấy tiền trả cho Trần Hậu L nhưng không cầm được. Trần Hậu L và Nguyễn Quốc Th sau khi từ quán anh Trần Văn Nghĩa về, cả hai ghé vào quán ăn ở gần Bến xe mới huyện Đô Lương thuộc xã Yên Sơn, huyện Đô Lương để uống rượu. Trước khi vào uống rượu L gọi điện nói Lê Tùng Tr đến uống rượu nhưng do không có xe máy nên L nói Nguyễn Quốc Th về chở Lê Tùng Tr đến và cả ba cùng ngồi uống rượu. Trong quá trình cả ba ngồi uống rượu, Trần Hậu L nói với Nguyễn Quốc Th và Lê Tùng Tr với nội dung "Thằng Nghĩa mất dạy thật, có ngày tao bẻ tay". Nghe vậy Nguyễn Quốc Th hỏi L "Chuyện gì đó anh, hắn nợ anh à, nợ mấy, lâu chưa"; L trả lời "Hắn nợ tau mười triệu đồng tiền công không chịu trả", Th nói "Nếu hắn nợ tiền phạt thì chiều mà hắn lên thì chuyện này để đó em lo, em nói chuyện với hắn trước chứ anh đừng có đập, dọa hắn, hắn khiếp đó" (Ý của Th là vụ việc này để Th gặp anh Nghĩa để đòi tiền cho), L nói "Rồi vụ ni để chú lo". Cả ba ngồi ăn và uống rượu đến khoảng 14 giờ cùng ngày thì nghỉ. Nguyễn Quốc Th nói với L "Bác ngồi đây em lại nhà Chung tý chơi tý" (mục đích của Nguyễn Quốc Th là đến nhà anh Nguyễn Đăng Chung để tìm anh Trần Văn Nghĩa có ở đây không); rồi Th đi bộ một mình tới nhà anh Nguyễn Đăng Chung( nhà anh Chung ở gần nơi L, Th, Tr ngồi uống rượu). Khi vào nhà anh Nguyễn Đăng Chung, Nguyễn Quốc Th thấy anh Trần Văn Nghĩa đang ngồi ở bàn uống nước với anh Nguyễn Đăng Chung, Th liền nói với anh Nghĩa "Mi ra đây, mi không trốn được mô, đừng mượn bóng anh Chung mà tao không làm được chi mi" và Th gọi điện thoại báo cho Trần Hậu L và Lê Tùng Tr biết là anh Trần Văn Nghĩa đang ở trong nhà anh Nguyễn Đăng Chung. Trần Hậu L điều khiển xe máy chở Lê Tùng Tr vào nhà anh Trần Đăng Chung, tại đây, Lê Tùng Tr nói với anh Trần Văn Nghĩa "Mi trốn à" đồng thời dùng tay tát vào mặt của anh Nghĩa mấy cái và được anh Nguyễn Đăng Chung cùng vợ chị Thái Thị Hồng (sinh năm 1977 ) can ngăn nên Lê Tùng Tr không dùng tay tát nữa. Sau khi bị Lê Tùng Tr dùng tay tát vào mặt mấy cái, anh Trần Văn Nghĩa đi lại nói với Trần Hậu L "Em đang nhờ vợ chồng anh Chung đi cắm xe", nghe vậy L không nói gì và đi ra ngoài cổng nhà anh Nguyễn Đăng Chung đứng; còn Lê Tùng Tr yêu cầu anh Trần Văn Nghĩa đi tới nhà ở của Trần Hậu L để nói chuyện. Do quá khiếp sợ tới nhà ở của Trần Hậu L sẽ bị đánh tiếp, nên anh Nghĩa không đi. Một lát sau, L quay lại đứng ở cổng nhà anh Nguyễn Đăng Chung chỉ tay vào yên xe (ý nói anh Nghĩa ngồi lên xe để về nhà ở của L). Thấy hành động đó nên anh Trần Văn Nghĩa đi ra để gặp Trần Hậu L, nhưng khi anh Nghĩa đang đi được một đoạn liền bị Lê Tùng Tr lấy một gậy cao su có sẵn ở trong khuôn viên nhà của anh Nguyễn Đăng Chung ( gậy cao su hình trụ, dài 50cm, đường kính 02cm) đánh một cái vào đầu anh Nghĩa thì anh Nghĩa ôm đầu chạy vào nhà ở của anh Nguyễn Đăng Chung. Khi chạy vào nhà anh thì Nguyễn Quốc Th tiếp tục nói với anh Nghĩa "Giờ mi phải đi, tao chở mi đi" (ý nói anh Nghĩa phải đến nhà Trần Hậu L); nghe vậy anh Nghĩa trả lời "Em đang chờ tiền cắm xe, có là em xuống liền". Nguyễn Quốc Th nói tiếp "Không cần, mi phải ngồi lên xe đi theo tao"; anh Nghĩa trả lời "Em không đi" thì Nguyễn Quốc Th liền cầm một cốc thủy tinh uống nước dơ lên định đánh vào người anh Nghĩa nhưng may được vợ chồng anh Nguyễn Đăng Chung kịp thời can ngăn, nên Th không đánh được. Ngay sau đó, Nguyễn Quốc Th lấy đăng ký xe máy của xe máy biển kiểm soát 37Z9-4741 đang để ở trên bàn uống nước của gia đình anh Nguyễn Đăng Chung rồi lại dắt xe máy biển kiểm soát 37Z9-4741 đi về nhà ở của Trần Hậu L( xe máy và đăng ký xe máy, chủ sở hữu hợp pháp là của cha đẻ của anh Trần Văn Nghĩa trước đó đã đưa cho anh Nghĩa đi để nhờ vợ chồng anh Nguyễn Đăng Chung đi cầm cố để lấy tiền nhưng không được). Sau khi bị Trần Hậu L, Lê Tùng Tr và Nguyễn Quốc Th chiếm đoạt xe máy, nên anh Trần Văn Nghĩa đã nhanh chóng đến trình báo sự việc với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương. Đối với Nguyễn Quốc Th sau khi lấy đăng ký xe máy cùng xe máy của anh Trần Văn Nghĩa đi về nhà ở của Trần Hậu L. Khi về tới nhà Trần Hậu L, L hỏi Nguyễn Quốc Th "Thằng Nghĩa đâu", Th trả lời "Tý nữa cha hắn đến thì hắn mới xuống, em đi xe đây rồi", L nói với Th "Nếu rứa thì đem xe quay lại". Nguyễn Quốc Th nghe lời L nên điều khiển xe máy vừa chiếm đoạt của anh Trần Văn Nghĩa quay lại nhà anh Nguyễn Đăng Chung nhưng gia đình anh Chung đã đóng cửa đi vắng nên Nguyễn Quốc Th quay về nhà của TRần Hậu L. Trên đường đi về, Nguyễn Quốc Th gặp Lê Tùng Tr ở giữa đường và cả hai quay lại nhà anh Nguyễn Đăng Chung một lần nữa nhưng không thấy anh Trần Văn Nghĩa đâu cả nên quay về nhà Trần Hậu L.
Đến 18 giờ ngày 06/11/2019, Nguyễn Quốc Th bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương bắt người bị giữ trong Tr hợp khẩn cấp và thu giữ cùng tang vật vụ án gồm một chiếc xe máy nhãn hiệu Wave RSX, sơn màu xanh đen, số khung: 2378-425848, số máy: C12E-2170530, biển kiểm soát: 37Z9-4741 và một giấy đăng ký xe máy mang tên Trần Văn Hiền- sinh năm 1958, trú tại xóm 8, xã Văn Sơn, huyện Đô Lương. Trần Hậu L và Lê Tùng Tr sau đó bỏ trốn; đến ngày 02/01/2020, Trần Hậu L ra đầu thú về hành vi phạm tội tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương; vào ngày 22/01/2020 bị can Lê Tùng Tr bị bắt giữ theo Quyết định truy nã số 01 ngày 16/01/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra CÔng an huyện Đô Lương.
Tại Bản kết luận định giá trong tố tụng hình sự số 55/HĐĐG, ngày 14/11/2019 của Hội đồng định giá Ủy ban nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, kết luận: Một chiếc xe máy nhãn hiệu Wave RSX, sơn màu xanh đen, số khung: 2378-425848, số máy: C12E-2170530, biển kiểm soát: 37Z9- 4741, xe đã qua sử dụng có giá trị là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng: Ngày 05/11/2019 anh Nguyễn Đăng Chung- sinh năm 1973, trú tại xóm Yên Tr, xã Yên Sơn, huyện Đô Lương đã giao nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương gồm một gậy cao su màu đen, có chiều dài 50cm, đường kính rộng 02cm. Ngày 06/11/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương thu giữ tại Nguyễn Quốc Th gồm: Một chiếc xe máy nhãn hiệu Wave RSX, sơn màu xanh đen, số khung: 2378-425848, số máy: C12E-2170530, biển kiểm soát: 37Z9-4741 và một giấy đăng ký xe máy mang tên Trần Văn Hiền- sinh năm 1958, trú tại xóm 8, xã Văn Sơn, huyện Đô Lương. Vào ngày 20/01/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương đã tiến hành trao trả lại cho ông Trần Văn Hiền- sinh năm 1958, trú tại xóm 8 xã Văn Sơn, huyện Đô Lương là chủ sở hữu hợp pháp quản lý gồm một xe máy nhãn hiệu WAVE RSX, sơn màu xanh đen, biển kiểm soát 37Z9-4741 và một đăng ký xe máy mang tên Trần Văn Hiền. Còn lại một chiếc gậy cao su là vật chứng vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương đã chuyển giao cho Cơ quan Chi cục thi hành án dân sự huyện Đô Lương quản lý theo quy định pháp luật.
Về phần dân sự: Người bị hại anh Trần Văn Nghĩa yêu cầu bị can Trần Hậu L phải thanh toán trả cho anh tiền làm giường và tiền làm cánh cửa sắt với tổng số tiền 4.500.000 đồng.
Bản cáo trạng số 47/CT-VKS ngày 15/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An truy tố Trần Hậu L, Lê Tùng Tr và Nguyễn Quốc Th đều về tội "Cướp tài sản" theo khoản 1 điều 168 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt: Tuyên bố bị cáo Trần Hậu L, Lê Tùng Tr và Nguyễn Quốc Th phạm tội "Cướp tài sản ". Áp dụng khoản 1 điều 168, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Hậu L từ 04 năm 06 tháng tù đến 05 năm tù; Áp dụng khoản 1 điều 168, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Tùng Tr từ 03 năm 06 tháng đến 03 năm 08 tháng tù; Áp dụng khoản 1 điều 168, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc Th từ 03 năm 04 tháng tù đến 03 năm 06 tháng tù Miễn hình phạt phụ là phạt tiền cho các bị cáo. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo nhất trí về tội danh, khung hình phạt, không tranh luận gì thêm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Người bị hại không tranh luận gì thêm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho các bị cáo.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không tranh luận gì thêm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đô Lương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về sự vắng mặt của người làm chứng: Tại phiên toà người làm chứng vắng mặt nhưng họ đã có lời khai đầy đủ tại hồ sơ. Xét việc vắng mặt họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Căn cứ vào các Điều 292, 299 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thống nhất vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Trần Hậu L, Lê Tùng Tr và Nguyễn Quốc Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa kết luận: Có đủ cơ sở kết luận Trần Hậu L, Lê Tùng Tr và Nguyễn Quốc Th phạm tội "Cướp tài sản" theo quy định tại khoản 1 điều 168 Bộ luật hình sự.
Hội đồng xét xử nhận thấy: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng và lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đủ căn cứ xác định: vào khoảng 15 giờ 10 phút ngày 05/11/2019, trong khuôn viên nhà ở của anh Nguyễn Đăng Chung, sinh năm 1973, trú tại: xóm Yên Tr, xã Yên Sơn, huyện Đô Lương, Trần Hậu L, Lê Tùng Tr và Nguyễn Quốc Th đã có hành vi dùng vũ lực tác động lên cơ thể anh Trần Văn Nghĩa, sinh năm 1993 ở xóm 8, xã Văn Sơn, huyện Đô Lương rồi chiếm đoạt của anh Nghĩa một chiếc xe máy nhãn hiệu Wave RSX, sơn màu đen, số khung: 2378-425848, số máy C12E-2170530, biển kiểm soát 37Z9-4741 cùng giấy tờ đăng ký xe máy mang tên Trần Văn Hiền, sinh năm 1958 ở xóm 8, xã Văn Sơn, huyện Đô Lương (Trị giá xe máy bị chiếm đoạt là 5.000.000 đồng nên phạm vào khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự.
Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương truy tố bị cáo Trần Hậu L, Lê Tùng Tr và Nguyễn Quốc Th về tội "Cướp tài sản" theo khoản 1 điều 168 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có cơ sở.
[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện sự liều lĩnh và táo bạo, không chỉ xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự công cộng và an toàn xã hội. Bị cáo L tuy không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là đối tượng có nhân thân xấu, đã hai lần bị Toà án huyện Đô Lương xét xử hình sự đã được cải tạo giáo dục nhưng không lấy đó làm bài học mà sau khi ra tù lại tiếp tục phạm tội thể hiện bị cáo là đối tượng khó cải tạo giáo dục, trong vụ án này bị cáo L giữ vai trò chính nên cần lên cho bị cáo mức án nghiêm và cao hơn hai bị cáo còn lại. Bị cáo Tr phạm tội lần này thuộc Tr hợp tái phạm đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự cần áp dụng đối với bị cáo. Bị cáo Th không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là đối tượng thực hiện tội phạm một cách tích cực và là người trực tiếp lấy xe của anh Nghĩa. Nên cần thiết phải xét xử nghiêm, áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên cũng cần xem xét cả ba bị cáo sau khi phạm tội khai báo thành khẩn ăn năn hối cãi, Người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho các bị cáo. Riêng bị cáo L sau khi phạm tội đã ra đầu thú, bị cáo Tr có ông bà nội được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất và Huân chương kháng chiến hạng ba. Bị cáo Th có bà ngoại được truy tặng bà mẹ Việt Nam anh hùng, ông ngoại là liệt sỹ. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ phần nào cho bị cáo Tr và Th. Bị cáo Tr còn có tình tiết giảm nhẹ đó là tự nguyện bồi thường đầy đủ cho người bị hại. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng giảm nhẹ phần nào cho các bị cáo thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.
[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù các các bị cáo còn có thể bị phạt tiền hoặc tịch thu tài sản, nhưng qua xác minh của cơ quan điều tra thì các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, tài sản không có gì đáng giá vì vậy không áp dụng hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với các bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.
[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương đã thu giữ một chiệc gậy cao su màu đen dài 50 cm, đường kính 02 cm đây là vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ [8] Về vấn đề khác: Trong vụ án này đối với Thái Khắc Công, sinh năm 1976, trú tại: xóm 14, xã Thịnh Sơn, huyện Đô Lương đã có hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đô Lương đã khởi tố và xét xử vào ngày 30/3/2020.
[9] Về án phí: Căn cứ điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội; buộc bị cáo L, Tr, Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
[10] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương tại phiên tòa về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Trần Hậu L, Lê Tùng Tr và Nguyễn Quốc Th phạm tội "Cướp tài sản".
Áp dụng: khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Trần Hậu L 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (02/01/2020).
Áp dụng: khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Lê Tùng Tr 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (22/01/2020).
Áp dụng: khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Quốc Th 03 (ba) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (06/11/2019).
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ một chiệc gậy cao su màu đen dài 50 cm, đường kính 02 cm (Số vật chứng trên có tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đô Lương theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/4/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đô Lương).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội: Buộc bị cáo Trần Hậu L, Lê Tùng Tr và Nguyễn Quốc Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Trần Hậu L, Lê Tùng Tr và Nguyễn Quốc Th; người bị hại Trần Văn Nghĩa; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Văn Hiền có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 44/2020/HS-ST ngày 28/05/2020 về tội cướp tài sản
Số hiệu: | 44/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về