Bản án 44/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤNG HIỆP, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 44/2019/HS-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 31 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 40/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 9 năm 2019, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2019/QĐXXST-HS ngày 03/10/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2019/HSST-QĐ ngày 18/10/2019 đối với bị cáo:

Hồ Văn H, sinh năm 1979; Nơi sinh: quận OM, thành phố C; Nơi cư trú: ấp MQ, thị trấn C, huyện P, tỉnh H. Nghề nghiệp: Công chức; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Hồ Văn T, sinh năm 1954 và bà Trần Thị V, sinh năm 1956. Anh, Chị em ruột: 04 người; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Mỹ X, sinh năm 1986; Con: Hồ Hữu T, sinh năm 2008; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Về nhân thân: Ngày 27/02/2018 bị Công an huyện Phụng Hiệp xử phạt hành chính 200.000 đồng về hành vi gây mất an ninh trật tự, đã thực hiện xong Quyết định ngày 08/3/2018.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam: Không; Hiện đang được tại ngoại ở địa phương và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt.

-Người bị hại: Bà Lê Thị P, sinh năm 1937 (đã chết). Đăng ký thường trú: ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh H. Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1/ Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1935.

Địa chỉ: ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh H. Vắng mặt

2/ Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1967.

Địa chỉ: ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh H. Vắng mặt

3/ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1962.

Địa chỉ: ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh H. Vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Hoàng T1, sinh năm 1983.

Địa chỉ: ấp ML, thị trấn C, huyện P, tỉnh H. Có mặt.

Người làm chứng:

1/ Bà Nguyễn Thị Loan, sinh năm 1966.

Địa chỉ: ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh H. Vắng mặt.

2/ Bà La Thị Út, sinh năm 1960.

Địa chỉ: ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh H. Vắng mặt.

3/ Ông Trương Văn Đơ, sinh năm 1958.

Địa chỉ: ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 10 phút, ngày 19/4/2019, sau khi đã uống bia Hồ Văn H, sinh năm 1979, ngụ ấp MQ, thị trấn C, huyện P, tỉnh H điều khiển xe mô tô biển số kiểm soát 65P5 -6921 chạy trên tỉnh lộ 928, hướng từ thị trấn B đến thị trấn C, huyện P, khi H điều khiển xe đến đoạn đường thuốc ấp T, thị trấn B thì đụng vào người bà Lê Thị P, sinh năm 1937, ngụ ấp T, thị trấn B đang đi bộ qua đường từ lề phải sang lề trái theo hướng di chuyển của xe mô tô biển số kiểm soát 65P5 -6921. Tai nạn giao thông xảy ra, hậu quả bà Lê Thị P và Hồ Văn H bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, đối với xe môtô biển số kiểm soát 65P5 -6921 bị hư hỏng nặng, đến 20 giờ cùng ngày bà Lê Thị Ph tử vong (bút lục 106-107, 112-113, 117-120).

Tại phiếu kết quả xét nghiệm nồng độ cồn trong máu ngày 19/4/2019 của Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ xác định nồng độ cồn trong máu của Hồ Văn H là 211 miligam/100 mililít máu (bút lục 60).

Tang vật chứng trong vụ án:

-Vật chứng Cơ quan điều tra đã tạm giữ và trao trả cho chủ sở hữu: Trả cho Hồ Văn H 01 xe mô tô và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển kiểm soát 65P5-6921 (bút lục 92, 178).

-Vật chứng Cơ quan điều tra đã tạm giữ và nhập kho vật chứng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp: 01 Giấy phép lái xe mô tô hạng A1, số: 930048006204, tên Hồ Văn H.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 66/19/TT ngày 02/5/2019 của Trung tâm pháp y Sở y tế Hậu Giang xác định và kết luận nguyên nhân tử vong đối với bà Lê Thị P là chấn thương sọ não. (BL 53-54).

Căn cứ vào sơ đồ hiện trường và kết quả khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn, kết quả điều tra xác định: Hiện trường xảy ra vụ tai nạn giao thông là trên tỉnh lộ 928 đoạn thuộc ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh H, là đoạn đường thẳng được trải nhựa, mặt đường rộng 5,40 mét, có vạch kẻ đường chia thành 02 phần đường riêng biệt cho xe qua lại hai chiều. Hướng xe mô tô biển số kiểm soát 65P5-6921 chạy từ thị trấn B đến thị trấn C, huyện P. Tâm vùng đụng kéo vào lề phải theo hướng di chuyển của xe 65P5-6921 là 0,90 mét, kéo đến đầu vết cày xe 65P5-6921 là 2,10 mét, kéo đến đầu nạn nhân Lê Thị Plà 3,60 mét; Trục trước xe 65P5-6921 kéo vào lề là 1,70 mét, trục sau kéo vào lề 0,70 mét; Đầu vết cày xe 65P5-6921 kéo vào lề là 1,10 mét, kéo đến đầu nạn nhân Lê Thị P là 1,70 mét, vết cày dài 3,25 mét, đuôi vết cày trùng với trục sau xe 65P5-6921; Đầu nạn nhân Lê Thị P kéo vào lề là 2,30 mét, kéo đến trục trước xe 65P5-6921 là 2,80 mét.

Tại bản Cáo trạng số 39/CT-VKS-HPH ngày 17/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phụng Hiệp truy tố Hồ Văn H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm b, Khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi tai nạn xảy ra bị cáo Hồ Văn H cùng đại diện hợp pháp gia đình bị hại đã tự thỏa thuận bồi thường thiệt hại với số tiền là 80.000.000 (Tám mươi triệu) đồng và được đại diện hợp pháp của gia đình bị hại thống nhất, gia đình bị hại đã làm đơn xin bãi nại cho Hồ Văn H và cam kết không yêu cầu, kH nại gì về sau.

Tại phiên toà:

Kiểm sát viên luận tội giữ nguyên Cáo trạng truy tố đề nghị áp dụng: Điểm b Khoản 2 Điều 260; Điểm b, s Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hồ Văn H từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về tang vật chứng đề nghị trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 930048006204 mang tên Hồ Văn H. Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo chịu theo quy định.

Bị cáo Hồ Văn H đã khai nhận về hành vi của mình như nội dung nêu trên và xin Toà xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Hoàng T1 là người trực tiếp giao tiền khắc phục hậu quả cho đại diện gia đình người bị hại xác định số tiền mà anh đưa cho gia đình nạn nhân là phần tiền mà gia đình bị cáo đưa cho anh nên anh không có yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phụng Hiệp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phụng Hiệp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Hồ Văn H khai nhận về hành vi điều khiển xe gây tai nạn cho bà Lê Thị Phưởng. Đối cH lời khai nhận của bị cáo với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan trong vụ tai nạn, kết luận giám định, biên bản khám nghiệm tử thi, các biên bản điều tra và các tài liệu chứng cứ khách quan khác có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 16 giờ 10 phút ngày 19/4/2019, bị can Hồ Văn H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 65P5 -6921 chạy trên tỉnh lộ 928 hướng từ thị trấn B đến thị trấn C, huyện P trong tình trạng có nồng độ cồn trong máu 211 miligam/100 mililít máu vượt quá mức quy định (50 miligam/100 mililít máu), thiếu tập trung quan sát và xử lý tình huống kém nên đụng vào người bà Lê Thị P đang đi bộ qua đường từ lề phải sang lề trái theo hướng di chuyển của xe mô tô biển số kiểm soát 65P5-6921 là đã vi phạm khoản 8, khoản 23 Điều 8 Luật giao thông đường bộ dẫn đến hậu quả làm cho Lê Thị P tử vong sau khi được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa trung ương thành phố Cần Thơ. Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” tội phạm được quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 260 Bộ Luật hình sự năm 2015.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nên nhận thức được xe mô tô là nguồn nguy hiểm cao độ, khi điều khiển xe phải tuân thủ các quy định của pháp luật về an toàn giao thông, bị cáo điều khiển xe trong tình trạng có nồng độ cồn trong máu 211 miligram/100 mililit máu vượt quá mức quy đinh (50 miligram/100 mililit máu), không đảm bảo quy tắc về an toàn giao thông gây tai nạn làm thiệt hại tính mạng của người khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến an toàn trật tự công cộng, xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau tai nạn bị cáo đã cùng gia đình bồi thường đầy đủ thiệt hại cho đại diện hợp pháp của gia đình bị hại (Do anh Nguyễn Hoàng T1 là người đại diện giao tiền khắc phục hậu quả cho gia đình người bị hại); tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn và thể hiện sự ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s Khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự. Gia đình bị hại có đơn bãi nại đề nghị không xử lý hình sự và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ khác theo Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều, Khoản, Điểm; tội danh; mức hình phạt và biện pháp miễn chấp hành hình phạt; án phí… là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Xét về tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho cho hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của người khác, bị cáo tham gia giao thông nhưng không đảm bảo điều kiện điều khiển phương tiện giao thông (có nồng độ cồn trong máu vượt mức quy định), thiếu quan sát và xử lý tình huống kém đã gây ra hậu quả dẫn đến chết người. Bị cáo từng bị xử phạt vi phạm hành chính vào ngày 27/02/2018, bị cáo đã chấp hành xong vào ngày 08/3/2018 tính ngày ngày 08/3/2019 coi như bị cáo chưa từng bị xử phạt nên bị cáo không có tiền sự, nhưng kể từ ngày 08/3/2019 đến ngày 19/4/2019 (ngày thực hiện hành vi phạm tội) là chưa quá 06 tháng nên căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì trường hợp của bị cáo được xem là có nhân thân xấu. Vì vậy cần phải có mức hình phạt nghiêm là phạt tù có thời hạn để bị cáo suy nghĩ về hành vi của mình. Tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo là do lỗi vô ý, bị cáo đã khắc phục toàn bộ thiệt hại và thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải, đồng thời bị cáo được đại diện gia đình bị hại làm đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên Hội đồng xét xử cần áp dụng thêm Điều 54 cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt để tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo tốt, sớm hòa nhập cộng đồng cũng đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[7] Về vật chứng: Trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 930048006204 mang tên Hồ Văn H [8] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Hồ Văn H phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng: Điểm b, Khoản 2 Điều 260; Điểm b, s Khoản 1 Điều 51; Khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

Xử phạt bị cáo Hồ Văn H 01 (một) năm tù, thời hạn phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999: Trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 930048006204 mang tên Hồ Văn H tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4.Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đại diện hợp pháp của người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 06, 07 và 09 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HS-ST ngày 31/10/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:44/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phụng Hiệp - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về