Bản án 44/2019/HSST ngày 25/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SL

BẢN ÁN 44/2019/HSST NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 42/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

CAD, sinh năm 1977, tại NC, ML, SL; Nơi ĐKHKTT: Bản P, xã NC, huyện ML, tỉnh SL; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 0/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cháng A T và con bà Giàng Thị M (đã chết); có vợ là Giàng Thị C, sinh năm 1978; có ba con lớn sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 2001; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại bản án số 06/HSST ngày 21/12/2005 của Tòa án nhân dân huyện ML đã xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã được xóa án tích; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/12/2018; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cầm Kim Loan, Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm Trợ giúp viên pháp lý nhà nước, tỉnh SL. Có mặt.

Người làm chứng: LVQ, sinh năm 1986, trú tại: Bản MC, xã NC, huyện ML, tỉnh SL. Vắng Mặt.

Người Phiên dịch: Bà Vàng Thị Dàng, Cán bộ Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo CAD bị Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào hồi 10 giờ 40 phút ngày 29/12/2018, tại khu vực bản P, xã NC, huyện ML, tỉnh SL, Công an phát hiện và bắt quả tang CAD, sinh năm 1977, trú tại: Bản P, xã NC, huyện ML, tỉnh SL đang có hành vi bán trái phép chất ma túy tại nhà cho LVQ, sinh năm 1986, trú tại: Bản MC, xã NC, huyện ML, tỉnh SL để lấy 100.000, đồng.

Vật chứng thu giữ:

01 gói nilon màu trắng, bên trong chứa cục chất bột màu trắng, thu giữ do LVQ tự giác giao nộp, khai là Heroine do mua của CAD với số tiền 100.000, đồng;

02 tờ tiền polime mệnh giá 50.000, đồng thu giữ của CAD tự giác giao nộp, khai nhận là tiền vừa bán Heroine cho LVQ mà có;

02 gói nilon màu trắng, bên trong chứa cục chất bột màu trắng, thu giữ do CAD tự giác lấy trong túi áo khoác bên phải đang mặc giao nộp, khai nhận là Heroine để bán;

Ngày 29/12/2018 cơ quan Công an đã thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định, kết quả:

01 gói nilon màu trắng, bên trong chứa cục chất bột màu trắng, thu giữ do LVQ tự giác giao nộp khi bắt quả tang có khối lượng 0,03 gam, lấy 0,03 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu DQ;

02 gói nilon màu trắng, bên trong chứa cục chất bột màu trắng, thu giữ do CAD tự giác lấy trong túi áo khoác bên phải đang mặc giao nộp có khối lượng 0,07 gam, lấy 0,07 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu D1, D2.

Công an huyện ML, tỉnh SL Quyết định trưng cầu giám định chất ma túy, loại ma túy.

Tại kết luận giám định số: 170/KLMT ngày 03/01/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL. Kết luận: Mẫu bột màu trắng ký hiệu DQ, D1, D2 là chất ma túy, loại chất Heroine, khối lượng 0,10 gam. Tổng khối lượng là 0,10 gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo CAD, người bào chữa không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Quá trình điều tra CAD, LVQ khai nhận: Khoảng hồi 10 giờ 00 phút sáng ngày 29/12/2018, LVQ đến nhà CAD hỏi mua Heroine, LVQ đưa cho CAD 100.000, đồng sau khi nhận tiền CAD lấy 01 gói đưa cho LVQ thì bị phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Ngoài hành vi mua bán trái phép chất ma túy bị bắt quả tang hồi 10 giờ 40 phút ngày 29/12/2018 CAD và LVQ còn khai ra hành vi trước đó khoảng 15 giờ, ngày 28/12/2018 ở tại nhà CAD còn bán 01 gói Heroine với giá 50.000, đồng cho LVQ, sau khi mua được LVQ đã sử dụng hết, số tiền bán được CAD đã chi tiêu hết.

Về nguồn gốc Heroine CAD bán cho LVQ, CAD khai mua của người đàn ông dân tộc thái không biết tên, địa chỉ ở khu vực trên đường bản P, xã NC, huyện ML, tỉnh SL với giá 200.000, đồng, mang về chia nhỏ để sử dụng một ít và để bán. Qua điều tra xác minh, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của CAD.

Đối với LVQ đã mua ma túy của CAD để sử dụng, số Heroine khi thu giữ có khối lượng 0,03 gam. Do đó không đủ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với LVQ. Cơ quan Công an huyện ML đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo CAD đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Bản cáo trạng số: 306/CT-VKSML ngày 20 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố bị cáo CAD về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố CAD phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt CAD từ 07 năm đến 08 năm tù.

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có tài sản.

Về vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 100.000, đồng tiền mua bán ma túy.

Tịch thu tiêu huỷ: Vỏ phong bì cũ; giấy gói cũ (đã được niêm phong).

Buộc bị cáo CAD phải nộp truy thu ngân sách Nhà nước: 50.000, đồng tiền mua bán ma túy mà có đã chi tiêu hết.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo phát biểu ý kiến bào chữa đưa ra các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên Quyết định truy tố. Bị cáo, người bào chữa nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên toà bị cáo CAD thừa nhận: Hồi 10 giờ 40 phút ngày 29/12/2018 CAD đã thực hiện hành vi bán trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,03 gam cho LVQ lấy 100.000, đồng tại nhà thì bị bắt quả tang. Trước đó khoảng 15 giờ, ngày 28/12/2018 ở tại nhà CAD còn bán 01 gói Heroine với giá 50.000, đồng cho LVQ, sau khi mua được LVQ đã sử dụng hết, số tiền bán được CAD đã chi tiêu hết.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Thông báo kết quả giám định, lời khai của người mua ma túy.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo CAD đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” với tình tiết định khung “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản nên không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo theo quy định của khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy: Tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục bị cáo.

[3]. Về nhân thân: Bị cáo đã bị kết án: Tại bản án số 06/HSST ngày 21/12/2005 của Tòa án nhân dân huyện ML đã xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã được xóa án tích được coi là không có tiền án, tiền sự và được xác định nhân thân không tốt có liên quan đến hoạt động ma túy.

Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo khai ra hành vi phạm tội trước đó và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4]. Về vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 100.000, đồng tiền mua bán ma túy.

Tịch thu tiêu huỷ: Vỏ phong bì cũ; giấy gói cũ (đã được niêm phong).

Buộc bị cáo CAD phải nộp truy thu ngân sách Nhà nước: 50.000, đồng tiền mua bán ma túy mà có đã chi tiêu hết.

Về nguồn gốc Heroine CAD bán cho LVQ, CAD khai mua của người đàn ông dân tộc thái không biết tên, địa chỉ ở khu vực trên đường bản P, xã NC, huyện ML, tỉnh SL với giá 200.000, đồng, mang về chia nhỏ để sử dụng một ít và để bán. Qua điều tra xác minh, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của CAD. Nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về số ma túy.

Đối với LVQ đã mua ma túy của CAD để sử dụng, số Heroine khi thu giữ có khối lượng 0,03 gam. Do đó không đủ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với LVQ. Cơ quan Công an huyện ML đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là thỏa đáng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015:

Tuyên bố CAD phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt CAD 07 (bẩy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/12/2018.

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 100.000, đồng (một trăm nghìn đồng)

tiền mua bán ma túy.

Tịch thu tiêu huỷ: Vỏ phong bì cũ; giấy gói cũ (đã được niêm phong).

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh SL.

Buộc CAD phải nộp truy thu ngân sách Nhà nước: 50.000, đồng (năm mươi nghìn đồng) tiền mua bán ma túy mà có đã chi tiêu hết.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo CAD phải chịu 200.000, đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

 Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 25/6/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 44/2019/HSST ngày 25/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:44/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về